Trong huyền thoại của Ấn Độ có câu
chuyện của một bà bị chết đứa con trai duy nhất. Bà đến xin vị đạo sĩ
làm cho con bà sống lại. Vị đạo sĩ nói với bà là hãy đi tìm cho được
một nắm gạo từ một gia đình mà chưa bao giờ thần chết đến thăm. Nếu bà
có thể xin được nắm gạo này, vị đạo sĩ hứa là sẽ làm cho con bà sống
lại. Bà đi gõ cửa từng nhà và hỏi, “Mọi người trong nhà đều có mặt ở bàn
ăn chứ - cha, mẹ, con cái - có thiếu ai không?” Nhưng câu trả lời bà
thường được nghe là nhà nào cũng đều có sự thiếu vắng của ai đó. Khi bà
tiếp tục đi xin gạo, nỗi buồn của bà vơi dần vì bà nhận thấy rằng gia
đình nào cũng đều có người chết.
Không ai thoát chết, đó là thân phận của con người. Có sinh thì
có tử. Tuy biết như thế, nhưng hầu như ai ai cũng sợ đề cập đến cái
chết.
Có người ví sự chết giống như sự sinh hạ của một em bé. Một thai
nhi nằm trong lòng mẹ ấm cúng, êm đềm thì nó không muốn chui ra khỏi
lòng mẹ để đi vào một thế giới mà nó hoàn toàn không biết gì. Cũng vậy,
người ta sợ chết vì không ai muốn từ giã một thế giới mà họ biết rõ có
những gì ở trong đó, để đi vào một thế giới hoàn toàn xa lạ. Nhưng nếu
không sinh ra thì không biết được biết bao điều tốt đẹp khác. Và có
chết đi, chúng ta mới đi vào một thế giới mớimà Chúa Giêsu đã hứa ban
cho chúng ta.
Sự sinh hạ giống sự chết ở điểm, cả hai đều là một biến cố làm
thay đổi đời người một cách vĩnh viễn. Và cả hai đều ngoài tầm kiểm soát
của chúng ta. Có muốn sinh ra hay không, sinh ra như thế nào, hoặc
chết đi lúc nào hay cách nào, chúng ta không thể kiểm soát được. Tuy
nhiên, tương tự như trước khi một em bé được sinh ra, cha mẹ của em đã
lo lắng, đã chuẩn bị một cách chu đáo để đưa em vào đời thì tại sao
chúng ta không chuẩn bị cho sự ra đi vĩnh viễn của chính chúng ta?
Nhân các bài đọc hôm nay đề cập đến sự chết, chúng ta thử tìm hiểu xem phải chuẩn bị cái chết như thế nào.
Về phương diện y tế và luật pháp, trước hết chúng ta cần có di
chúc để cho biết ý định của chúng ta khi bị chết bất thình lình, hoặc
khi bị hôn mê. Y học ngày nay rất tiến bộ và có nhiều cách chữa trị để
giúp kéo dài sự sống, dù chúng ta trong tình trạng coma, nhưng đó có phải là điều chúng ta mong muốn hay không?
Người Công Giáo thì không được giết người, kể cả chính mạng sống
của mình, nhưng có thể nào chúng ta từ chối những phương tiện ngoại
thường chỉ để giữ cho một người còn sống, dù trong tình trạng hôn mê
hay chỉ là một thân xác bất động trên giường bệnh? Nói cách khác, có
phù hợp với đạo lý hay không khi chúng ta không muốn các bác sĩ phục
hồi sự sống của chúng ta, hay của người thân yêu trong tình trạng coma?
Giáo Hội Công Giáo không đề cập rõ đến tính cách luân lý của việc
“phục hồi sự sống”, nhưng Giáo Hội phân biệt giữa “bình thường” hay
“cân xứng” và “ngoại thường” hay “không cân xứng”. Các phương tiện y
khoa “bình thường” và “cân xứng” với kết quả thì có tính cách bó buộc
về luân lý. Ngược lại, chúng ta không phải “phục hồi sự sống” nếu phải
dùng đến các phương tiện ngoại thường quá tốn kém và không cân xứng với
kết quả.
Giáo Hội nói rõ rằng “thật sai lầm về luân lý khi áp đặt nhiệm vụ
chữa trị trên bất cứ ai mà nó gây nên gánh nặng quá mức cho họ, cho
gia đình họ, và cho cộng đồng lớn hơn, hoặc chấp nhận những chữa trị mà
nó không đem lại những ích lợi hợp lý hay vô ích hay không đáng kể.”
Đây là sự dậy bảo được thấy trong bản Tuyên Ngôn Vatican về Euthanasia
(chết êm dịu) của Thánh Bộ Tín Lý vào tháng Năm 1980, và Các Huấn Thị
Tôn Giáo và Đạo Đức của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cho các Tổ Chức Công
Giáo Chăm Sóc Sức Khỏe (Vatican Declaration on Euthanasia ["Iura et
Bona"], Part IV on "Due Proportion in the Use of Remedies"; The United
States Conference of Catholic Bishops' Ethical and Religious Directives
for Catholic Health Care Facilities).
Ngoài vấn đề y tế, tờ di chúc sẽ rất hữu ích khi phải quyết định
về vấn đề tài sản. Chúng ta không muốn cái chết của chúng ta lại trở
nên nguyên nhân của sự chia rẽ, oán thù của những người thân yêu trong
gia đình vì tranh giành của cải. Thêm vào đó, nếu không có di chúc, rất
có thể tài sản của chúng ta thuộc về công quỹ chứ không thuộc về
vợ/chồng hay con cái của chúng ta.
Về phương diện xã hội, chúng ta cũng cần chuẩn bị cho cái chết
của chính mình. Ngạn ngữ Việt Nam có câu “Cọp chết để da, người chết để
tiếng.” Người nào chết đi cũng muốn để lại tiếng tốt, hay ít nhất là
một hình ảnh đẹp nơi người thân quen. Nhưng đây là một điểm rất chủ
quan nên chúng ta phải thận trọng. Có khi chúng ta lầm tưởng đó là một
lối sống tốt, có thể chấp nhận được, nhưng đối với người khác, chưa
chắc họ nghĩ như vậy. Điển hình là câu chuyện của ông Alfred Nobel,
người phát minh ra chất nổ. Một sáng kia ông đọc báo và thấy người ta
cáo phó về cái chết của chính ông. Điều làm ông bối rối không phải là
sự lầm lẫn giữa cái chết của người anh và của ông, nhưng ông bàng hoảng
rúng động khi biết được người khác nghĩ gì về ông. Người ta gọi ông là
“Vua Chất Nổ”, một kỹ nghệ gia làm giầu nhờ buôn bán chất nổ. Đối với
người đời, ông chỉ là một người buôn bán cái chết. Thế là ông quyết
định phải làm sao cho người đời thấy được ý nghĩa và mục đích thực sự
của đời ông. Và ông đã để lại tất cả tài sản to lớn của ông để trao
tặng cho những ai đã, đang và sẽ góp phần cho sự thịnh vượng của thế
giới. Ngày nay chúng ta gọi là Giải Hòa Bình Nobel.
Nói về tang
lễ, trong Bài Không Tên Số 4 của Nhạc Sĩ Phó Tế Vũ Thành An có một câu
rất hay, “Triệu người quen có mấy người thân. Khi lìa trần, có mấy
người đưa.” Thoạt nghe qua câu này, chúng ta cảm thấy sự cay đắng, bạc
bẽo của tình đời, nhưng suy nghĩ kỹ lại, nếu chúng ta không tha thiết
đến người khác, không bao giờ dành chút thời giờ đến nhà quàn để đọc
kinh hay tham dự tang lễ của người khác, không sống tình cảm của một
người trong cộng đoàn, trong xã hội thì chúng ta cũng đừng ngạc nhiên
“khi chúng ta lìa trần, chẳng có mấy người đưa”!
Điểm quan trọng hơn cả khi chuẩn bị cho sự chết là về tôn giáo,
bởi vì chỉ có tôn giáo mới trực tiếp đối phó với sự chết, hay nói đúng
hơn, tôn giáo có câu trả lời cho sự chết. Chết có phải là hết? Sau khi
chết, chúng ta sẽ đi đâu?
Hầu hết các tôn giáo đều cho rằng sự sống vẫn tiếp tục sau cái
chết. Chết không phải là hết. Hồi Giáo thì tin có thiên đường, nhưng
làm thế nào để lên thiên đường thì Hồi Giáo cho rằng họ phải có hành vi
tôn giáo, tỉ như cầu nguyện, ăn chay, nhưng ôm bom tự sát để giết
người khác cũng được coi là một hành vi tôn giáo!
Phật Giáo đưa ra thuyết luân hồi để cho rằng sự sống vẫn tiếp tục
nhưng dưới hình thái khác nhau. Người tốt sẽ đầu thai thành kiếp
người. Người xấu sẽ đầu thai thành thú vật. Ở đây chúng ta thấy có sự
khác biệt giữa Phật Giáo và Kitô Giáo, đó là sự tự do ý muốn. Tự do ý
muốn dẫn đến trách nhiệm. Một con người, nhờ có lương tri họ biết điều
thiện ác, và có sự tự do ý muốn để thi hành, và như vậy họ phải chịu
trách nhiệm về hành vi của họ. Nhưng một con vật, thí dụ, con sư tử
chẳng hạn, tự bản chất nó là một con vật ăn thịt, nó phải giết những con
thú khác để sinh tồn chứ sư tử không thể ăn cỏ, và đối với Phật Giáo
sát sinh là một tội ác.
Nói chung, Hồi Giáo và Phật Giáo vẫn còn những điểm về thế giới
đời sau chưa được thỏa đáp. Không những thế, một điểm khác biệt rất lớn
giữa hai tôn giáo này và Kitô Giáo, đó là vị sáng lập. Các tín đồ Hồi
Giáo và Phật Giáo không có ai để kêu cầu khi họ có những nhu cầu cần
được giúp đỡ, bởi vì các giáo chủ của họ đều phải chết giống như chúng
ta. Nhưng Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, Người cũng đã chết nhưng đã
sống lại, để bây giờ Người có thể giúp đỡ chúng ta.
Trong bài phúc âm hôm nay, Đức Giêsu đã phục hồi sự sống cho người
con trai của một bà góa thành Nain. Phép lạ này chỉ là một trong biết
bao phép lạ được ghi nhận trong các phúc âm để chúng ta tin rằng Đức
Giêsu là Thiên Chúa – Người có quyền trên sự sống cũng như sự chết.
Để chuẩn bị cho sự chết của chính chúng ta, không gì tốt hơn là
chúng ta hãy làm quen với Đức Giêsu ngay tự bây giờ. Chúng ta có thể
gặp gỡ với Đức Giêsu trong sự cầu nguyện, trong việc đọc phúc âm và
nhất là trong các bí tích.
Theo đạo là theo một con đường. Là một tín hữu Kitô, chúng ta
sống theo con đường của Đức Giêsu, đó là một con đường giúp chúng ta
không còn sợ hãi cái chết và chắc chắn sẽ đưa chúng ta đến hạnh phúc
đời sau.
Pt Giuse Trần Văn Nhật
nguoitinhuu.com
0 nhận xét:
Đăng nhận xét