NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG CỦA HY VỌNG : CÙNG MẸ MARIA BƯỚC ĐI TRONG ĐỨC TIN

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

TÌNH MẪU TỬ ĐÃ ĐỊNH HÌNH MỘT VỊ GIÁO HOÀNG

 




những khu phố yên ắng của Illinois, xa rời sự tráng lệ của Rome hay tiếng chuông nhà thờ vang vọng, có một gia đình bình dị đã nuôi dưỡng một cậu bé, người mà một ngày kia sẽ chăn dắt hàng triệu linh hồn. Câu chuyện của họ không được ghi lên trang báo hay khắc lên đá cẩm thạch, mà in dấu trong những đêm cầu nguyện thầm lặng, trong những việc phục vụ khiêm nhường và trong tình yêu đã đặt nền móng cho sự vĩ đại.

Đằng sau mỗi ơn gọi luôn có một tiếng nói, thường nhẹ nhàng và bền bỉ – tiếng nói của một người mẹ biết tin tưởng, ngày đêm cầu nguyện và hy sinh. Và đằng sau người đàn ông giờ được gọi là Đức Giáo hoàng, đã có một người phụ nữ với lòng nhiệt thành sâu sắc và sức mạnh âm thầm: Mildred Agnes Prevost.

Đây không chỉ là câu chuyện về một vị giáo hoàng tương lai, mà còn về những con người đã hình thành nên ngài – về một người mẹ và một người cha sống giản dị, yêu thương trung tín, vô tình dâng hiến cho thế giới một người con ưu tú. Robert Francis Prevost đã bộc lộ khuynh hướng tu trì ngay từ tuổi ấu thơ. Lớn lên tại Dalton, một vùng ngoại ô phía nam Chicago, cậu bé được mọi người trìu mến gọi là Bốp “Bob” hay Rốp “Rob”. Robert năng nổ tham gia sinh hoạt giáo xứ Đức Maria Vô Nhiễm tại làng quê Riverdale, nơi cậu đi học, là ca viên hát trong ca đoàn và lễ sinh phục vụ bàn thờ. Niềm hăng say thờ phượng của cậu thể hiện rõ khi cùng với các anh trai thường chơi trò đóng kịch “làm lễ” ngay tại nhà, dùng chiếc bàn ủi quần áo để làm bàn thờ và kẹo để làm bánh lễ.

Năm 1969, Prevost ghi danh vào Trung học Chủng viện Thánh Augustine, một chủng viện nhỏ gần Saugatuck, Michigan. Tại đây, cậu liên tục đạt thành tích học tập xuất sắc: nhận thư khen, có tên trong bảng danh dự, giữ vai trò tổng biên tập kỷ yếu, làm thư ký học sinh và là thành viên Hội Danh Dự Quốc Gia. Robert còn tham gia các cuộc thi hùng biện và tranh luận. Sau khi tốt nghiệp trung học, cậu theo học Cử nhân Khoa học Toán tại Đại học Villanova và tốt nghiệp năm 1977. Tiếp đó năm 1982, Robert nhận Văn bằng Thần học (M.Div.) từ Liên hiệp Thần học Công giáo tại Chicago. Trong thời gian này, ngài còn dạy vật lý và toán tại Trung học Thánh Rita của Chicago.

Không dừng lại, Robert Prevost tiếp tục theo đuổi học vị tiến sĩ luật giáo luật tại Đại học Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas ở Rome, hoàn thành luận án về vai trò của Phó Linh mục trong Dòng Thánh Augustinô.

Ông cố Lewis Marius Prevost, người cha của Đức Giáo hoàng Leo XIV, mang hai dòng máu Pháp – Ý. Theo Vatican News, ông sinh ra ở Chicago. Hồ sơ lưu niệm cho biết sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Woodrow Wilson năm 1940, ông chuyển sang Đại học DePaul và nhận Thạc sĩ Nghệ thuật năm 1949. Vị tương lai của Mildred cũng tốt nghiệp cùng chương trình và năm đó của báo Chicago Tribune. Lewis Marius Prevost là cựu chiến binh Thế chiến II, phục vụ trong Hải quân, sau đó làm Giám đốc Sở Giáo dục Thành phố Chicago. Ông từng đảm nhiệm hiệu trưởng Trường Trung học Mount Carmel và giám đốc Quận 167 Glenwood. Báo Chicago Tribune ghi nhận ông là Chủ tịch Hội Liên Kinh và Mân Côi tại Thánh Maria Vô Nhiễm, giúp xứ phát 1.000 liều vắc‑xin bại liệt miễn phí. Lewis Marius Prevost qua đời năm 1997.

Mildred Martinez Prevost, mẹ của Đức Giáo hoàng, có gốc gác Tây Ban Nha. Bà sinh năm 1912 tại Chicago. Theo New York Times, cha mẹ bà – Joseph Martinez và Louise Baky – ban đầu sống tại New Orleans, mang dòng Creole. Bà lớn lên ở Chicago cùng năm người chị em. Báo Chicago Tribune cho biết đức tin tôn giáo rất quan trọng với gia đình bà, khi hai chị em bà đã gia nhập dòng tu. Mildred nhận Thạc sĩ Giáo dục và làm thủ thư tại Trường Trung học Công giáo Mendel. Bà qua đời năm 1990; trong di cảo, bà được ghi nhận từng là Chủ tịch Hội Mân Côi và Liên Kinh Thánh Maria, là giọng ca triển vọng, từng dự Liên hoan Âm nhạc Chicago 1941, và tích cực phục vụ trong các vai trò lãnh đạo tại giáo xứ.

Đức Giáo hoàng Leo XIV, sinh Robert Francis Prevost, là con út trong ba anh em trai: Lewis Martin Prevost, cựu thủy thủ Hải quân Mỹ, sau này chuyên về công nghệ máy tính và hiện cư ngụ tại Florida; John Joseph Prevost, thầy giáo và hiệu trưởng trường Công giáo đã nghỉ hưu, hiện sống ở khu vực Chicago. Ba anh em lớn lên trong bầu khí Công giáo mực thước, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ gương mẫu của cha mẹ và họ hàng, trong đó có các dì là nữ tu.

Gia đình Prevost sống ở Dalton, Illinois, một ngoại ô công nhân phía nam Chicago, với tổ ấm lấy đức tin, kỷ luật và phục vụ cộng đồng làm trung tâm. Từ thuở nhỏ, Robert đã cho thấy dấu hiệu ơn gọi thiêng liêng: tham gia Thánh Maria Vô Nhiễm School ở Riverdale với vai trò lễ sinh, ca viên và tín hữu tận tâm. Hằng ngày, cậu mô phỏng thánh lễ tại nhà, dùng vật dụng trong gia đình dựng bàn thờ và chia kẹo làm Mình Thánh cho các anh.

Mẹ Mildred khuyến khích lòng thành ấy mà không bao giờ ép buộc cậu theo ơn gọi tôn giáo. Khi mới 14 tuổi, Robert đã tự nguyện ghi danh vào Trung học Chủng viện Thánh Augustine ở Michigan. Tại đó, cậu không chỉ xuất sắc về học thuật mà còn nổi lên như một thủ lĩnh sinh viên: tổng biên tập kỷ yếu, thư ký hội học sinh và thành viên Hội Danh Dự Quốc Gia. Những năm tháng ở chủng viện đã đào sâu cam kết tâm linh và hình thành tri thức cho ngài.

Robert tiếp tục con đường học vấn: Cử nhân Khoa học Toán (Villanova, 1977), Thạc sĩ Thần học (CTU Chicago, 1982), rồi Luật Giáo luật (ĐH Giáo hoàng St. Thomas Aquinas, Rome). Trong giai đoạn này, ngài còn dạy Toán và Vật lý, đồng thời dấn thân vào Dòng Thánh Augustinô, tiến đến các học vị cao hơn.

Dù cha  là Lewis Marius Prevost qua đời năm 1997 và mẹ Mildred Agnes Prevost ra đi năm 1990 trước khi ngài được thụ phong giám mục, họ vẫn có dịp chứng kiến những bước đầu quan trọng của Robert: phong linh mục (1982), hoạt động truyền giáo tại Peru từ năm 1985, và các vị trí lãnh đạo trong Dòng Augustinô – Từ vị trí Bề Trên Giám tỉnh, ngài đã vươn lên đảm nhận vai trò quốc tế cao nhất của dòng là Bề Trên Tổng Quyền.

Tâm tình của một người mẹ: Mildred Agnes Prevost về ơn gọi của con trai mình:

Tôi vẫn còn nhớ những bước chân nhỏ bé từng chạy khắp ngôi nhà của chúng tôi ở Dalton, Illinois, tiếng cười trong trẻo vang vọng qua từng căn phòng khi cậu út Robert của tôi xếp hàng những chú lính đồ chơi như các lễ sinh, và biến bàn ăn thành một bàn thánh bé nhỏ. Con khoác khăn tắm lên vai như áo lễ, giơ chiếc bánh quy lên như Mình Thánh, và với đôi mắt tràn ngập kỳ diệu, thì thầm những lời chỉ có thiên đàng mới hiểu trọn vẹn.

 Từ thuở ấu thơ, tôi đã thấy nơi Robert một điều gì đó rất đặc biệt – một chiều sâu thầm lặng, một khao khát được yêu thương, và một trái tim hướng về Thiên Chúa.

 Tôi chưa bao giờ thúc ép con theo con đường linh mục. Không, ơn gọi đích thực không thể được sinh ra từ sự ép buộc. Nhưng tôi đã cầu nguyện – luôn cầu nguyện – để tất cả các con của tôi trở nên những người đàn ông sống có danh dự, có mục đích và có đức tin.

 Robert, người con đã bước đi trên con đường ấy với một sự bình an hiếm có. Khi con nói với tôi lúc mới 14 tuổi rằng con muốn vào chủng viện, tôi rất tự hào, nhưng tôi cũng đã khóc. Trái tim người mẹ luôn giằng co giữa buông bỏ và giữ lấy, nhưng tôi biết rằng cuộc đời con thuộc về Thiên Chúa, còn hơn là thuộc về tôi.

Tôi đã dõi theo con tôi lớn lên trong chủng viện qua những đêm dài miệt mài học tập và những kỳ tĩnh tâm thinh lặng. Tôi đã nghe giọng nói của con vỡ òa vì xúc động vào ngày con khấn dòng với các tu sĩ Augustinô. Và khi con được thụ phong linh mục vào năm 1982, tôi đã có mặt – trái tim tràn đầy, mắt ướt lệ, tay chắp lại trong lời cầu nguyện.

 Tôi đã thấy con tôi, nay là Cha Robert, nâng chén thánh với đôi tay run rẩy. Tôi gần như có thể nhìn thấy hình ảnh đứa trẻ năm xưa và người đàn ông mà Thiên Chúa đã nhào nặn nên. Dù tôi không còn sống để thấy con đội mũ giám mục, điều đó không làm tôi buồn. Tôi đã thấy con gánh lấy gánh nặng linh hồn con người với sự khiêm nhường, phục vụ người nghèo ở Peru bằng niềm vui và yêu thương Hội Thánh bằng tất cả những gì con có.

 Tước hiệu không làm nên một mục tử – trái tim mới là điều quyết định. Và Robert của tôi, con tôi, luôn có trái tim của một người mục tử. Nếu thiên đàng cho phép, tôi vẫn đang dõi theo con, vẫn đang cầu nguyện cho con, và mỗi ngày tôi đều tạ ơn Chúa vì đặc ân được làm mẹ của con.

(Lược dịch từ Love Jesus My Saviour)

0 comments:

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | JCPenney Coupons