1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê
và ông A-ha-ron:2 "Khi trên da thịt người nào
phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người
ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với một trong các tư tế, con của
A-ha-ron. 45 Người mắc bệnh phong hủi phải mặc
áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô uế! "46 Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra,
chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.
Bài đọc II: I Cor 10:31-11; 1
31 Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất
cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa.32 Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái
hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa;33 cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi
người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.1 Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô.
Tin Mừng Mc 1:40-45.
40
Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu
Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch."41 Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn,
anh sạch đi! "42 Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi
anh, và anh được sạch.43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh
đi ngay,44 và bảo anh: "Coi chừng, đừng
nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch,
thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết."45 Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp
nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những
nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.
Bài Tin Mừng Mc 1,40-45 thuật lại việc Đức Giê-su chữa một người mắc
bệnh phong hủi và những gì xảy ra sau đó. Không phải tình cờ khi bản văn lặp đi
lặp lại bốn lần từ “sạch”, trong đó 3 lần là động từ katharizô: “sạch” (Mc
1,40.41.42) và 1 lần danh từ katharismos “sự sạch” (1,44). Người mắc bệnh phong
“muốn được sạch” và Đức Giê-su “muốn anh ta được sạch”. Hai ước muốn gặp nhau
và lập tức anh ta được sạch. Sau đó Đức Giê-su nói anh ta đi trình diện tư tế, để
xác nhận “sự sạch” (được chữa lành) nơi anh ta. Như thế, bệnh phong hủi làm người
ta trở thành “không sạch” và bị cách ly khỏi xã hội. Bệnh phong làm cho sự giao
tiếp và tương quan của người bệnh với người khác bị cắt đứt. Vậy làm thế nào để
biến đổi từ tình trạng “không sạch” trở thành “được sạch”, từ tình trạng “tương
quan bị cắt đứt” trở thành “có tương quan với người khác”?
Dẫn nhập
Điều lạ lùng trong cách hành văn là sau khi chữa lành, Đức Giê-su
lại đuổi anh ta đi ngay, dặn anh ra không nói gì với ai và đi trình diện tư tế,
nhưng anh ta đã không giữ lời Đức Giê-su căn dặn. Thay vì giữ im lặng thì người
được chữa lành lại đi “rao giảng nhiều nơi, đến nỗi Đức Giê-su không thể công
khai đi vào thành” (1,45). Sự việc anh ta không giữ lời Đức Giê-su trong bản văn
có ý nghĩa gì? Bài viết sẽ bàn về việc chữa lành bệnh phong hủi và phản ứng lạ
lùng của người được chữa lành. Cụ thể là (1) Người mắc bệnh phong đã làm gì trước
khi được chữa lành, (2) đã phản ứng thế nào sau khi được chữa lành và (3) tại
sao không làm theo lời Đức Giê-su căn dặn.
1. Hành động trước khi được chữa lành
Câu chuyện mở đầu bằng việc người mắc bệnh phong đến gặp Đức
Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin để Người làm cho anh được sạch. Về phía Đức
Giê-su, Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và nói: “Tôi muốn, anh
hãy được sạch” (1,41). Lập tức bệnh phong biến khỏi và anh ta được sạch. Như thế,
việc chữa lành được thực hiện từ cả hai phía.
Ba động tác về phía người mắc bệnh phong hủi là “đến với”, “quỳ xuống”
và “van xin Đức Giê-su” bằng một lời nói: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho
tôi sạch” (1,40). Về phía Đức Giê-su, Người cũng thực hiện ba bước, trước hết
Người chạnh lòng thương, thứ đến Người đụng vào người phong hủi và sau cùng Người nói lên ý muốn của Người: “Tôi muốn, anh hãy được
sạch” (1,41). Trong hai lời nói của hai nhân vật, đều xuất hiện động từ “muốn”
(thelô) và động từ “sạch” (katharizô). Như thế, “ước muốn được sạch” của người
bệnh phong chỉ có thể được thực hiện khi anh ta đối diện với một người vừa “muốn
chữa lành”, vừa “có khả năng chữa lành”. Nếu “không muốn” và “không xin” thì chẳng
có gì để nói, nhưng nếu “muốn” và “van xin” mà không gặp được “có khả năng” thì
cũng không có gì xảy ra.
Bản văn vừa đề cao hành động của người bị phong hủi: “Đến với Đức
Giê-su” và “van xin Người”. Đây là hành động “cầu xin” dựa trên niềm tin, bởi
vì đây không phải là cách chữa bệnh bình thường. Đồng thời bản văn đề cao “ước
muốn” và “khả năng chữa lành” của Đức Giê-su. Người là Đấng có quyền năng làm
cho người mắc bệnh phong “được sạch”, nghĩa là làm cho một người bị loại trừ khỏi
cộng đoàn được hội nhập trở lại và có thể thiết lập tương quan với mọi người
trong cộng đoàn.
2. Phản ứng sau khi được chữa lành
Sự hội nhập cộng đoàn của người được chữa lành diễn tả qua sự đảo
ngược cách ngoạn mục. Từ chỗ anh ta không được tiếp xúc với cộng đồng đến chỗ
trở thành người rao giảng về lời của Đức Giê-su. Người thuật chuyện cho biết:
“Vừa đi khỏi, anh ta đã bắt đầu rao giảng nhiều nơi và loan truyền lời ấy”
(1,45a). Câu kết của bài Tin Mừng cho thấy tầm ảnh hưởng lời rao giảng của anh
ta: “...đến nỗi Người (Đức Giê-su) không thể công khai đi vào thành, Người đành
ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người”
(1,45b).
Người mắc bệnh phong được chữa lành là người đã thi hành sứ vụ của
Đức Giê-su: “Rao giảng” (kêrussô). Thực vậy, trước đoạn văn Mc 1,40-45, tác giả
Tin Mừng Mác-cô cho biết ở Mc 1,39: “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng
(kêrussô) trong các Hội đường.” Đến Mc 1,45, chính người được chữa lành đi “rao
giảng nhiều nơi”, còn Đức Giê-su, Người lại không di chuyển để “giảng dạy” mà “ở
những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người” (1,45b).
Chi tiết: “Người ta từ khắp nơi đến với Người” cho thấy kết quả lời rao giảng của
người bị bệnh phong được chữa lành là ngoài sức tưởng tượng.
Đầu đoạn văn, người phong “đến với Đức Giê-su” chứ không phải Đức
Giê-su đến với anh ta; đến cuối đoạn văn, Đức Giê-su lại không thể công khai
vào thành, vì người được chữa lành đã làm cho nhiều người khác từ khắp nơi “đến
với Đức Giê-su”. Bản văn muốn nói với độc giả rằng ai đã thực sự gặp được Đức
Giê-su và được Người “chữa lành bệnh tương quan”, thì người ấy sẽ phản ứng bằng
cách “rao giảng về Đức Giê-su” và làm cho “nhiều người khác”, “đến với Người”. Điều
lạ trong bản văn là “lời rao giảng thành công” của người được chữa lành là do
“không giữ lời Đức Giê-su”.
3. Ý nghĩa của việc “không vâng lời” ở Mc 1,44-45
Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức Giê-su đã làm gì và nói gì
với anh ta? Người nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: “Coi chừng,
đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch,
anh hãy tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ” (1,44).
Người được chữa lành đã hoàn toàn không giữ lời Đức Giê-su dặn. Đức
Giê-su nói “Coi chừng, đừng nói gì với ai” thì anh ta lại “loan truyền lời ấy
cho cả thành biết”. Đức Giê-su bảo “hãy đi trình diện tư tế và tiến dâng những
gì Mô-sê đã truyền” thì anh ta lại không đi trình diện tư tế và dâng của lễ mà đi
vào thành rao giảng và nói với mọi người về việc anh ta được chữa lành. Tại sao
anh ta không giữ lời Đức Giê-su căn dặn? Kiểu hành văn này có ý nghĩa gì?
Lời dặn của Đức Giê-su có thể hiểu là nhằm tránh sự hiểu lầm về tư
cách Mê-si-a của Người và Người có thể vào các thành rao giảng. Điều đáng chú ý
là việc người được chữa lành không giữ lời dặn của Đức Giê-su trong đoạn văn
mang lại những hiệu quả tích cực. Có thể liệt kê ba ý sau:
(1) Điều tích cực thứ nhất là anh ta nói về Đức Giê-su cho mọi người,
nhưng lời rao giảng của anh ta không thay thế lời rao giảng của Đức Giê-su, ngược
lại, lời rao giảng của người được chữa lành đã làm cho “mọi người đến với Đức
Giê-su”.
(2) Điều tích cực thứ hai là thay vì Đức Giê-su vào thành, đi rao
giảng cho đám đông, thì bây giờ dân chúng từ khắp nơi đến với Người. Nhờ lời
rao giảng của người được chữa lành, Đức Giê-su có thể giảng dạy mà không phải đi
đâu cả. Đồng thời, nhờ anh ta mà cử toạ được chuẩn bị trước, dân chúng chủ động
đến với Đức Giê-su nghĩa là họ thực sự muốn nghe lời Người.
(3) Điều tích cực thứ ba của việc “không giữ lời dặn của Đức
Giê-su” là cách thức bày tỏ tác động lớn lao của việc chữa lành nơi anh ta. Làm
sao anh ta có thể im lặng khi niềm vui gặp được Đức Giê-su, hạnh phúc được chữa
lành, được hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời
mới, tương quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức
Giê-su. Dân chúng khắp nơi đã cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc ấy, nên họ đã
kéo đến với Đức Giê-su, để cũng “được sạch” tâm linh, nghĩa là có thể thiết lập
tương quan với Đức Giê-su và tương quan với người khác.
Đề tài người được chữa lành “không giữ lời Đức Giê-su dặn” (Mc
1,44-45) còn xuất hiện ở các nơi khác trong Tin Mừng Mác-cô và đây là một trong
những kiểu hành văn độc đáo của văn chương Mác-cô. Đề tài tương phản: “Càng cấm,
càng nói” đã được phân tích phần nào trong bài viết: “Bí mật công khai”. Cấm
không được nói mà ai cũng biết!
(http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/05/tim-hieu-tm-mc-bi-mat-cong-khai-cam.html).
Chi tiết “không vâng lời Đức Giê-su” trong Mc 1,40-15, nhằm cho độc giả biết
hai thông tin:
(1) Theo truyền thống Do Thái, để người bệnh phong hủi chữa lành
có thể hội nhận vào cộng đồng, người ấy phải “trình diện tư tế, và tiến dâng những
gì Mô-sê đã truyền” (1,44).
(2) Đối với độc giả dân ngoại (cũng là độc giả qua mọi thời đại),
họ được mời gọi hành động như người phong được chữa lành: Ra đi rao giảng để mọi
người từ khắp nơi đến với Đức Giê-su.
Kết luận
Đoạn Tin Mừng Mc 1,40-45 giúp độc giả suy gẫm về hai đề tài lớn:
(1) “Tương quan” và “hội nhập cộng đoàn”, “hội nhập xã hội”; (2) Thể hiện niềm
vui và hạnh phúc được chữa lành bằng cách rao giảng “lời ban sự sống” đã đón nhận
để mọi người đến với Đức Giê-su.
Con người có thể “cô đơn” và “đơn độc” ngay giữa đám đông. Có những
người hoàn toàn khoẻ mạnh về thể lý, nhưng tương quan với người khác lại có thể
bị tổn thương, bị rạn nứt, thậm chí bị cắt đứt, đổ vỡ, nghĩa là trở thành những
người “bị tách rời khỏi cộng đoàn” hay “tự mình cắt đứt tương quan với người
khác”. Bài Tin Mừng dùng hình ảnh “bệnh phong hủi” để diễn tả “tương quan bị cắt
đứt” giữa cá nhân và cộng đoàn. Vì thế, cần đến với Đức Giê-su để được Người chữa
lành. Hành trình của người mắc bệnh phong trong bản văn là lời mời gọi độc giả
hãy “đến với và van xin” Đức Giê-su. Người sẽ chữa lành họ, vì Người là “Đấng
muốn chữa lành” và “có khả năng chữa lành”. Nghĩa là Đức Giê-su có khả năng làm
cho độc giả được thanh tẩy, được sạch, được hội nhập cộng đoàn và bước vào tương
quan tốt đẹp với người khác.
Đồng thời, một khi đã được chữa lành, độc giả sẽ cảm nhận niềm vui
và hạnh phúc khôn tả, đó là niềm vui và hạnh phúc được bước vào tương quan với Đức
Giê-su và với mọi người. Niềm vui và hạnh phúc lớn lao này sẽ thúc đẩy những ai
được chữa lành lên đường, ra đi rao giảng và loan báo về Đức Giê-su để mọi người
cũng được đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy bằng cách tìm đến với Đức Giê-su.
Cách thức rao giảng mà bản văn đề cao là rao giảng như thế nào đó, để không phải
mọi người đến với mình, nhưng để họ “đến với Đức Giê-su”, “lắng nghe Đức
Giê-su” và tin vào Người. Ước mong độc giả thực sự gặp gỡ Đức Giê-su, bước vào
tương quan tràn đầy sức sống với Người và với mọi người. Từ đó hân hoan ra đi
rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đã lãnh
nhận cho những người xung quanh mình./.
Source:leminhthong.blogpost.com
0 nhận xét:
Đăng nhận xét