CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN NĂM C
BÀI ĐỌC I: Gr 38, 4-6. 8-10
"Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: "Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ". Vua Sêđêcia phán rằng: "Đấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì". Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn.
Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: "Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn". Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: "Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 39, 2. 3. 4. 18
Đáp: Lạy Chúa, xin cấp tốc trợ phù con (c. 14b).
Xướng: 1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu. - Đáp.
2) Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi. - Đáp.
3) Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông vào Chúa. - Đáp.
4) Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Đấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 12, 1-4
"Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 12, 49-53
"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". Đó là lời Chúa.
MỤC LỤC
11. Lửa
trên mặt đất – McCarthy
12. Ngọn
lửa tình yêu – Thiên Phúc
13. Lửa
14. Lửa
tình yêu – Lm. Phạm Thanh Liêm
15. Suy
niệm của JKN
16. Phân rẽ
17.
Tình yêu
18. Dấu chỉ
19.
Ném lửa
20. Sứ mạng
của Đức Giêsu – Lm FX Vũ Phan Long
21. Lửa và
Bình An – Lm. Jos Nguyễn Cao Luật
11. Lửa
trên mặt đất – McCarthy
(Trích dẫn
từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm
1. NGÔN SỨ LÀ “NGƯỜI GÂY RỐI LOẠN”
Đức Giêsu
rõ ràng là một con người tinh tuyền lành thánh, cho nên chúng ta vẫn mong rằng
Người phải được mọi người yêu mến. Tuy nhiên Người đã gây “rối loạn” đến nỗi bị
ghét bỏ và sau cùng bị đóng đinh. Làm thế nào mà điều ấy đã xẩy ra? Bởi vì Đức
Giêsu là một ngôn sứ, một ngôn sứ tôn giáo, và một ngôn sứ luôn luôn là một
Personna non grata đối với quyền lực hiện hành. Phần lớn các ngôn sứ đều bị
bách hại và một số bị giết chết.
Giêrêmia
là một ví dụ. Ông được kêu gọi để trở thành ngôn sứ từ khi còn nhỏ tuổi. Ông
sống ơn gọi của mình một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại
của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và Đền Thờ. Ông là lương tâm của đất nước
ông. Ông yêu thương tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin và
quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Người. Tuy nhiên ông bị kết án là một
kẻ làm loạn và ông sống trong sự đe doạ thường xuyên đối với mạng sống mình.
Các ngôn
sứ là “những người gây rối loạn” theo nghĩa tốt nhất của từ ấy. Không có kẻ
khuấy rối sự bình an nào lớn hơn người rao giảng công lý và sự thật. Hãy lấy
trường hợp của Martin Luther King ở Mỹ. Ông là một con người của hoà bình. Tuy
nhiên, khi đứng lên kêu gọi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc đối với người da đen,
ông đã gây ra nhiều biến động hơn bất cứ người nào khác cùng một thế hệ với ông
ở Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp nhà bác học Nga Andrei Sakharov, ông cũng bị chính
quyền cộng sản gán cho nhãn hiệu “kẻ gây rối” khi ông kêu gọi chấm dứt sự đàn
áp những người không có cùng quan điểm và sự phát triển các vũ khí hạt nhân.
Một đôi
khi điều chúng ta gọi là hoà bình thực ra không phải là hoà bình. Bất cứ hoà
bình nào không xây dựng trên nền tảng công lý đều là một hoà bình giả hiệu. Cố
Tổng Giám Mục Helder Camara ở Braxin đã mô tả nó như thứ ánh sáng giống ánh
sáng mặt trăng trên đầm lầy. Đức Giêsu đã đến để đem lại hoà bình nhưng không
phải loại hoà bình ấy. Giống như hoà bình giả hiệu, cũng có sự hiêp nhất giả
hiệu trong đó người ta bao che cho sự phân biệt, kỳ thị và bất công.
Khi nhà
văn Nam Phi Laurens Vander Post được phóng thích từ một trại giam các tù nhân
chiến tranh ở Nhật Bản, ông hầu như phẫn nộ bởi những tàn bạo của thời bình mà
ông đang sống không khác gì ông đã phẫn nộ trước những tàn bạo của chiến tranh.
Còn Solzhenitsyn nói rằng khi những người lính trở về đời sông dân sự, họ kinh
hoàng bởi cách mà người ta đối xử nhau tàn nhẫn nhất trong con người họ khi đem
lại cho họ cơ hội phục vụ một chính nghĩa cao cả hơn bất kỳ sự theo đuổi nào
của lợi ích bản thân.
Những sự
việc như thế được chấp nhận là bình thường thì quả là bất thường. Ví dụ như
những bất công trong xã hội, khoảng cách giữa cái nghèo không được giúp đỡ và
cái giàu xấc xược. Chúng ta đã quá quen với điều đó nên không còn cảm thấy phẫn
nộ. Chúng ta cần có người lay động chúng ta ra khỏi giấc hôn mê và sự thờ ơ đó.
Đức Giêsu
nói Người đến để đốt lửa trên mặt đất này. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ,
nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Lửa không phải là một vật mà người ta có thể thờ ơ
với nó. Nó không phải là một vật yếu đuối, nhợt nhạt, không sức sống. Lửa sưởi
ấm và an ủi. Nhưng nó cũng đốt bỏ những gì vô dụng và thanh lọc những gì ô uế.
Sứ điệp
của Tin Mừng là lửa, nó là men của thế gian Chúng ta, những môn đệ của Đức
Giêsu phải là những người giữ gìn ngọn lửa ấy.
Suy Niệm
2. CHẠY ĐUA
Vào thời
đại hôm nay, chúng ta chứng kiến một hiện tượng lạ lùng nhưng kích động. Đó là
hiện tượng chạy đua. Chúng ta thường thấy mười hoặc có khi hai chục ngàn người
tham gia vào các cuộc chạy Maratông trong thành phố và trên khắp thế giới. Một
vấn đề đặt ra: chạy Maratông một mình hay chạy với người khác, trường hợp nào
cho là dễ hơn. Câu thành ngữ: “Người chạy đường dài cô độc” nói lên tất cả.
Một vận
động viên chạy một mình trước một khán đài chật ních các cổ động viên reo hò cổ
vũ, người ấy lấy hết nghị lực và mọi sức lực để chạy vượt quá khả năng thông
thường của người ấy.
Chúng ta
lấy hết sức lực để chạy khi thấy xung quanh mình cũng có những người khác đang
chạy. Điều này đặc biệt đúng như chúng ta không quan tâm đến việc được xếp vào
số những người về đích trước tiên mà chỉ quan tâm đến việc hoàn thành cuộc
chạy. Lúc đó, chúng ta coi những người cùng chạy như bạn hơn là những đối thủ. Chúng
ta coi họ như những người nâng đỡ. Điều này làm chúng ta có thể rút ra sức mạnh
gương sáng của họ. Họ tạo thành một dòng người đưa chúng ta đi như trong một
dòng chảy mạnh mẽ.
Điều gì
trở ngại cho một vận động viên khi chạy? Bất cứ điều gì làm hỏng hoặc sự yếu
đuối nào. Nhưng cũng do thiếu động lực. Khi người ta có động lực cao, họ muốn
thực hiện những hy sinh to lớn bằng cách cống hiến thời gian, ăn kiêng, nỗ lực
v.v…
Chạy
Maratông không phải là để chiến thắng. Cuộc chạy mới đáng kể. Chạy Maratông tự
nó là một biến cố. Mọi người đều chiến thắng. Điều quan trọng là sự tham dự và
dấn thân. Và qua việc tham dự, chúng ta giúp đỡ những người khác bằng gương
sáng của chúng ta: chúng ta có đóng góp một phần nhỏ.
Không phải
chỉ khi chạy đua người ta mới rút ra được sức mạnh của tình đồng đội. Tác giả
sách Do Thái khích lệ các độc giả của ông phải kiên trì trong đức tin bất chấp
cái giá phải trả. Ông nói họ phải rút ra sức mạnh của “đám mây vô số nhân
chứng” đã đi trước họ. Ông đã dẫn chứng các thánh nhân trong Cựu Ước là những
người đã chạy đua trước họ.
Các Kitô
hữu ý thức mình là một phần của một chuỗi các nhân chứng thánh thiện kéo dài từ
các thánh Tông đồ. Trong cuộc chiến đấu để giữ lòng trung tín, họ luôn luôn tìm
lại những gương sáng đầy cảm hứng của các ngôn sứ, nhân chứng và thánh nhân.
Chúng ta rút ra niềm hy vọng và lòng can đảm từ những “anh hùng của đức tin”,
các ngài duy trì lòng trung tín bất chấp việc các ngài chưa được nhìn thấy lời
hứa hoàn thành trong đời sống các ngài. Và khi chúng ta cảm nghiệm sự mệt mỏi
cùng cảm giác thất bại và không hiệu quả, các ngài nói với chúng ta: “Chúng tôi
ở với các bạn. Đừng bỏ cuộc”.
Như một
phi công tiền phong đã nói: “Một đôi khi bão tố và sương mù chụp xuống bạn.
Nhưng bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đã băng qua sương mù, bão tố trước
các bạn, và bạn chỉ cần tự nhủ: “Họ đã làm được điều đó, nên điều đó có thể
được thực hiện lại”.
Nhưng đặc
biệt chúng ta phải hướng mắt nhìn về Đức Giêsu. Lòng trung tín của Người đã dẫn
đưa Người đến thập giá và sau thập giá đến vinh quang. Người là một gương sáng
cao cả toàn thể đám mây các gương sáng trong Cựu Ước.
Sứ điệp ấy
thật rõ ràng! Giống như Thầy chúng ta, các Kitô hữu chúng ta phải sẵn sàng
chiến đấu vượt qua mọi vật trở ngại trên con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đây không
phải là cuộc chiến đấu đơn độc, nhưng là một cuộc chiến đấu mà chúng ta cùng
nhau thực hiện. Chúng ta cùng nhau chạy trong một cuộc đua cao cả nhất dành cho
tất cả mọi người.
12. Ngọn
lửa tình yêu – Thiên Phúc
(Trích dẫn
từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Tại một khu
phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu
phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên,
trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ
trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn.
Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn
dầu.
Bình
thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín
hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ
cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong
nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng
đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
“Thầy đã
đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”.
Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu
chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào
đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Ngọn lửa
mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vẫn bừng cháy
trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín
hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các
tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.
Nếu con
người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con
người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.
Nếu lòng
hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng
rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?
Lời yêu
thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó
chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.
Như Thiên
Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn
sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần
thế.
Như Chúa
Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi
loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất
công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.
Như Thánh
Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa để biến họ thành chứng
nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh
luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma
Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này
như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu
vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Lạy Chúa,
xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng
con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những kẻ đang lạnh lùng,
thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh
lửa tình yêu Chúa. Amen.
13. Lửa
Có một cô
gái, mặc dù được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thế nhưng vì hoàn cảnh, đã
sống một cuộc đời bê tha tội lỗi. Số là vào năm mười tám tuổi, ba của cô thì bị
mất việc làm, còn má của cô thì đau yếu triền miên. Và thế là hằng đêm, cô phải
la cà vào các hàng quán để mồi chài khách khứa.
Sau một
thời gian, cuộc sống thác loạn này đã gieo vào lòng cô một nỗi chán chường,
khiến cho cô chỉ muốn nghĩ đến cái chết. Thế rồi, trong một bài giảng, cô được
nghe nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tình yêu ấy dạt dào đến độ
Ngài tha thứ tất cả với điều kiện là chúng ta phải hoàn toàn phó thác trong
vòng tay của Ngài.
Bài giảng
được minh họa bằng những sự kiện cụ thể, qua đó, Chúa đã tha thứ cho người đàn
bà Samaria, cho Mađalêna, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên
trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Bài giảng
này đã tác động mạnh mẽ trong tâm hồn cô gái, khiến cô rưng rưng như muốn khóc.
Sau đó cô gái đã dọn mình lãnh nhận bí tích giải tội và quyết tâm làm lại cuộc
đời. Giờ đây cô như một em nhỏ, đặt mình vào bàn tay Chúa và để Ngài dẫn dắt.
Bởi vì Chúa luôn yêu thương những kẻ bé mọn và yếu đuối. Ngài yêu thương chúng ta
với tất cả những khổ đau và vấp ngã của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta
phải biết chạy đến với Ngài vì Ngài là tình yêu.
Từ câu
chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với lời xác quyết của
Chúa:
- Ta mang
lửa đến trần gian và chỉ mong sao cho lửa ấy bừng cháy lên.
Theo các
thánh giáo phụ thì ngọn lửa Chúa Giêsu đem vào thế gian là ngọn lửa của Chúa
Thánh Thần, đã bừng lên trong ngày lễ Hiện xuống… Chính ngọn lửa này đã làm
phát sinh ra Giáo hội, là dụng cụ mà Ngài dùng để thanh lọc và thánh hóa nhân
loại.
Thế nhưng
chúng ta cũng có thể hiểu ngọn lửa nói đây là ngọn lửa tình yêu mà Ngài đã thắp
lên trong cõi lòng mỗi người.
Chính ngọn
lửa này đã bùng cháy trong tâm hồn hai môn đệ đi Emmaus trong ngày Phục sinh,
để các ông nhận biết Chúa. Và cũng ngọn lửa ấy đã bùng cháy lên trong tâm hồn
cô gái tội lỗi, khi cô được nghe biết về tình thương của Chúa, để rồi dứt khoát
với dĩ vãng tăm tối của mình.
Với chúng
ta cũng vậy, Chúa cũng đã đặt để trong cõi lòng chúng ta ngọn lửa tình yêu của
Ngài giống như ngọn nến chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Thế nhưng
ngày hôm nay, ngọn lửa đó đã tắt ngấm hay chỉ còn leo lét như một ngọn đèn
thiếu dầu?
Chính vì
thế chúng ta hãy cầu xin Chúa gia tăng sức mạnh, để ngọn lửa tình yêu của Ngài
được bùng cháy trong tâm hồn, nhờ đó mà bản thân chúng ta được sưởi ấm và cuộc
đời chúng ta tìm thấy đường nẻo phải đi.
14. Lửa
tình yêu – Lm. Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu
nói với các môn đệ: “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì, nếu không
phải là muốn lửa ấy cháy lên”. Nhóm lên, và làm ngọn lửa tình yêu bừng cháy, là
sứ mạng của Đức Giêsu và của mỗi người môn đệ Ngài.
Phải chọn
lựa giữa Đức Giêsu và thế gian
Đừng tưởng
thầy tới mang hòa bình, nhưng ngược lại, thầy tới mang chia rẽ. Chia rẽ ở đây
hiểu theo nghĩa, người ta phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và giá trị trần gian.
Những ai theo trần gian, có thể có ngày họ phản bội và làm hại thậm chí cả anh
em hay cha mẹ mình; còn những ai theo Đức Giêsu, phải sống theo luật tình yêu.
Qua Đức Giêsu, con người phải chọn lựa, phải có thái độ dứt khoát. Theo nghĩa
này, Đức Giêsu mang chia rẽ.
Ở một chỗ
khác Đức Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh
em. Bình an Thầy ban cho anh em, không như thế gian ban tặng”. Bình an của Đức
Giêsu, không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra; đúng hơn, bình an là thái
độ sống mà không gì có thể làm mất được. Bình an do xác tín rằng Thiên Chúa yêu
thương mình, và Ngài làm những điều tốt nhất cho mình, Ngài biến cả những điều
xấu người khác làm cho mình trở thành ích lợi cho mình.
Bình an
Đức Giêsu ban tặng, người ta tìm thấy nơi các tông đồ. Dù bị bách hại nhưng các
ngài vẫn kiên vững loan truyền Tin Mừng cứu độ “Thiên Chúa yêu thương con
người”. Bình an này các thánh tử đạo là những người cảm nghiệm và làm chứng
bằng chính cuộc sống của các ngài.
Lửa tình
yêu đã thiêu đốt Giêrêmia
Giêrêmia
đã nhân danh Chúa nói với dân chúng những điều mà những người lãnh đạo cùng
chính dân chúng không ưa thích. Và điều này đã làm cho tiên tri bị ghét, và
người ta tìm cách hãm hại tiên tri.
Đã có lúc
tiên tri bỏ cuộc, không muốn nói nhân danh Chúa nữa, những lúc đó lòng tiên tri
bừng bừng như lửa thiêu đốt, và cuối cùng tiên tri đã trở lại với Chúa, để tiếp
tục sứ mạng Ngài trao phó. “Vì nhiệt thành với luật Chúa, mà con phải thiệt
thân”. Thiên Chúa ban lửa tình yêu cách đặc biệt nơi một số người, để họ thành
chứng nhân của Chúa, để họ trở thành dụng cụ làm bùng cháy ngọn lửa tình yêu
đối với Thiên Chúa và đối với con người nơi nhiều tâm hồn.
Lửa tình
yêu với Thiên Chúa trong lòng Giêrêmia, lửa tình yêu đối với con người nơi
người đến xin vua Zedekiah giải cứu Giêrêmia, và ngọn lửa tình yêu nơi tâm hồn
vua, đã làm tất cả những người này hành động theo tình yêu, theo lương tâm,
theo Lời Chúa. Giêrêmia sống theo lửa tình yêu thúc đẩy, và chính Giêrêmia cũng
được cứu bởi lửa tình yêu.
Lửa Thánh
Thần tình yêu
Thánh Thần
là lửa tình yêu. Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, làm nhiều người can
đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết cho tình yêu Thiên Chúa và
tình yêu con người. Trên đường trần không thiếu những gai góc và gian nan vất
vả, nhưng với tình yêu của Thánh Thần, biết bao người đang tiếp nối sứ mạng của
Đức Giêsu, đang nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu. Nhìn lên Đức Giêsu
như người mẫu và lý tưởng, Kitô hữu hiên ngang sống giữa đời, đem tình yêu đến
với mọi người bằng sống yêu thương, ngay cả với những người thù ghét mình.
Tình yêu
chiến thắng hận thù. Yêu thương làm cuộc đời đẹp hơn, tươi hơn, thoải mái và
hạnh phúc hơn. Lửa tình yêu Đức Giêsu mang xuống trần đã bùng cháy trong tim
mỗi người, và mỗi người được gọi để làm ngọn lửa tình yêu lan rộng mãi.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ:
1. Theo
bạn, có khi nào không còn tình yêu trên trần gian nữa không? Tại sao?
2. Dựa vào
đâu để bạn nói Đức Giêsu yêu thương con người?
3. Đức
Giêsu làm lửa tình yêu bùng cháy bằng cách nào?
15. Suy
niệm của JKN
Câu hỏi
gợi ý:
1. Nếu bạn
triệt để sống tinh thần Tin Mừng vượt mức bình thường của mọi người, hoặc hăng
say dấn thân làm việc cho Thiên Chúa, nhân loại và Giáo Hội đến nỗi phải hy
sinh rất nhiều, thì thái độ của những người chung quanh bạn thế nào? khen ngợi
hay chê bai? ủng hộ hay chống đối?
2. Đức
Giêsu nói: Ngài đến không phải để đem lại hòa bình mà là sự chia rẽ, điều đó có
đúng trong thực tế không? Xin đan cử vài trường hợp cụ thể.
Suy tư gợi
ý:
1. Tâm lý
chung của con người
Những ai
đã từng sống cuộc đời sa đọa, bê bối, hoặc dưới trung bình về mặt đạo đức, chắc
chắn sẽ được những người thân (cha mẹ, thầy cô, vợ con, anh chị em, bạn bè…)
chung quanh mình nâng đỡ, vực dậy, kéo ra khỏi vũng bùn. Nhưng những người đã
từng sống một cuộc đời vượt hẳn mức trung bình, chẳng hạn muốn triệt để sống
theo tinh thần Tin Mừng, muốn hy sinh, quên mình thật sự để phục vụ tha nhân,
hoặc triệt để sống phó thác vào Chúa, thì sẽ bị những người chung quanh khuyên
can, lôi mình xuống. Nếu khuyên can không được, họ sẽ nói mình dại dột, khùng,
«mát»… thay vì nể phục. Nhiều vị thánh, khi quyết tâm triệt để sống theo lời
khuyên của Tin Mừng, thì bị chính những người thân mình nhất cản trở, như
trường hợp thánh Phan-xi-cô Khó Khăn. Khi ngài quyết tâm từ bỏ đời sống giàu
sang, bán mọi thứ mình có để bố thí, chấp nhận sống nghèo khó hầu hòa mình và
phục vụ những người khốn khổ, thì cha mẹ ngài cản trở. Cản không được, hai ông
bà bèn cho gia nhân chửi mắng Ngài là đồ khùng, ngu xuẩn, và cho phép họ ném cà
chua, đồ dơ vào ngài mỗi khi ngài đi ngang qua nhà.
2. Tâm lý
ấy bất lợi cho các ngôn sứ
Tâm lý của
con người là như vậy. Mình xuống thấp thì họ nâng mình lên, điều đó thật là
tốt! Nhưng mình lên quá cao thì họ lôi mình xuống. Các ngôn sứ của Thiên Chúa
đều cảm nghiệm đươc tâm lý này nơi những người thân mình. Khi ý thức được tiếng
Chúa gọi mình làm chứng cho Ngài, cho chân lý, công lý và tình thương, đồng
thời muốn đáp trả ơn gọi ấy một cách quảng đại, can đảm, người ngôn sứ sẽ phải
đối phó hoặc chiến đấu với chính những người thân yêu nhất của mình, những đồng
đạo của mình. Chính điều này làm cho người ngôn sứ trở nên hết sức đơn độc, và
nỗi khổ tâm chủ yếu của người ngôn sứ không phải ở chỗ phải hy sinh những điều
mà Chúa trực tiếp đòi hỏi cho bằng phải chịu sự bách hại của chính những người
thân yêu mình: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè. Nhiều khi càng là người thân
thì lại càng cản trở mình mạnh hơn. Tuy nhiên, người ngôn sứ không thể vì sự
chống đối của người thân mà bực bội hay ghét bỏ họ, vì họ không thể làm gì khác
hơn điều họ nghĩ.
Như thế,
người ngôn sứ phải hy sinh nhiều mặt:
– Những hy
sinh đến từ sự đòi hỏi của Thiên Chúa, của ơn gọi, của lương tâm: Thiên Chúa
luôn luôn đòi hỏi người ngôn sứ phải hy sinh và chịu đau khổ cao độ hơn người
khác;
– Những hy
sinh đến từ những bách hại của những người có hành vi sai trái mà người ngôn sứ
cảm thấy phải lên tiếng cảnh báo;
– Những hy
sinh đến từ những người thân yêu nhất của mình: những người này rất yêu thương
mình, sẵn sàng hy sinh cho mình, nhưng lại không chấp nhận cho mình dấn thân ở
mức độ mà họ cho là quá mức cần thiết. Vì sự dấn thân bị coi là quá mức ấy có
thể gây thiệt hại cho họ (khiến họ bị liên lụy, bị mất quyền lợi, phải lo lắng
và buồn phiền nhiều chuyện, phải khổ tâm khi thấy mình khổ, hoặc phải lo sợ cho
sự an nguy của mình). Chẳng hạn, một người chồng muốn dấn thân cho Chúa nhiều
hơn làm sao tránh được tình trạng buộc người thân mình cũng phải phần nào chấp
nhận hy sinh, thiệt thòi và cực khổ nhiều hơn vì mình? Một linh mục hay một tu
sĩ muốn làm ngôn sứ làm sao tránh được chuyện làm phiền hà các bề trên mình,
tập thể của mình (linh mục đoàn, nhà dòng), và những người mình có nhiệm vụ
chăm sóc?
3. Chúa và
ơn gọi có thể là nguyên nhân gây chia rẽ
Người ta
thường nghĩ Đức Giêsu hay các ngôn sứ là những người đem lại bình an cho tâm
hồn con người, và là nguyên lý nối kết mọi người lại với nhau. Điều đó rất
đúng, nhưng chỉ đúng một mặt, vì xét trên một bình diện khác, thì chính Đức
Giêsu và các ngôn sứ lại là những người đem lại sự bất ổn cho tâm hồn, và là
nguyên lý gây nên chia rẽ giữa mọi người.
– Đem lại
bất ổn, vì các ngài luôn luôn đặt mọi người trước một vấn đề lương tâm buộc họ
phải có một thái độ: hoặc theo tiếng lương tâm, hoặc không theo. Theo tiếng
lương tâm thì phải hy sinh nhiều thứ, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải
sống cao thượng, anh hùng… nhưng tâm hồn được bình an. Còn không theo tiếng
lương tâm thì không bị thiệt thòi hay đau khổ gì, nhưng lại bị chính lương tâm
mình cắn rứt, dày vò, và cũng có thể bị dư luận chê trách.
– Gây chia
rẽ, vì trước sự đòi hỏi của Đức Giêsu, của tiếng lương tâm, con người sẽ có
nhiều thái độ khác nhau. Những người không nghe theo lương tâm vì sợ phải hy
sinh và đau khổ sẽ có đủ những lý lẽ biện minh cho thái độ của họ, để tự đánh
lừa lương tâm mình hầu được bình an. Và để chứng tỏ mình hành động đúng, họ có
thể kết án những người kia là thiếu khôn ngoan, dại dột, quá khích, là gây hại,
gây chia rẽ… Chính ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài đọc I cũng bị nhiều người đồng
thời đánh giá: «Những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại
trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình
cho dân này, mà chỉ gây tai họa». Thế là vì lời mời gọi của Chúa, của tiếng
lương tâm mà trong nội bộ gia đình, đoàn thể, Giáo Hội… có sự chia rẽ, xung
đột, tranh đấu, chống đối nhau. Đương nhiên phần thua thiệt đau khổ sẽ nghiêng
về những người làm đúng theo sự đòi hỏi của ơn gọi, của lương tâm.
4. Sự chia
rẽ đến từ những nhận thức khác nhau
Do cách
nhìn cao thấp, rộng hẹp, nông sâu khác nhau, và do mức độ dấn thân khác nhau,
mà có sự mâu thuẫn và xung đột giữa những người cùng dấn thân theo Chúa, phục
vụ xã hội hay Giáo Hội. Sự khác biệt là tất yếu: người biết hoặc quảng đại ở
mức 100 không thể thấy và hành động cùng một cách với người ở mức 50, và người
ở mức 50 không thể giống với người ở mức 10. Người biết 100 điều này không thể
có cùng một cách nhìn và hành động với người biết 100 điều kia.
Có những
người nhìn thấy những giá trị lớn mà xa, có những người chỉ thấy được những giá
trị nhỏ trước mắt. Vì thế, người trước chủ trương hy sinh giá trị nhỏ trước mắt
để đạt được giá trị lớn về sau, và được thúc đẩy làm như vậy. Còn người sau
nhận thấy không nên «thả mồi bắt bóng», nên quyết tâm bảo thủ những giá trị
đang nắm trong tay, không quan tâm tới những gì chưa thấy. Vậy là cùng theo
đuổi và quyết tâm thực hiện điều tốt, nhưng người ta bất đồng và chia rẽ nhau.
Vấn đề không còn là chọn giữa cái tốt và cái xấu, mà giữa hai cái đều tốt: cái
tốt nhỏ và cái tốt lớn, cái cần thiết và cái ích lợi…
Chẳng hạn,
Chúa đòi buộc ta phải hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương con cái, nhưng cũng lại
đòi buộc ta phải sẵn sàng hy sinh mọi sự cho Nước Trời. Cả hai điều đều tốt và
đều buộc ta phải thực hiện. Nhưng cũng có những trường hợp hai điều tốt ấy xung
đột nhau: chẳng hạn, nếu quá lo lắng cho cha mẹ, con cái thì không thể lo cho
đại cuộc Nước Trời, và ngược lại. Vì thế, Chúa bảo: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn
Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng
với Thầy» (Mt 10,37).
Vậy, nhận
thức khác nhau về những điều tốt, và mức độ quảng đại khác nhau trước tiếng gọi
của Chúa hay trước sự đòi buộc của lương tâm có thể khiến người trong cùng gia
đình, cùng tập thể, xứ đạo, giáo phận chia rẽ nhau, chống đối nhau. Tình trạng
có thể trầm trọng đến mức «Kẻ thù của mình chính là người trong nhà» (Mt
10,36). Những người dấn thân triệt để cho Thiên Chúa nên nhận thức và sẵn sàng
chấp nhận điều này.
Cầu nguyện
Lạy Cha,
ngay từ khi con lãnh nhận bí tích rửa tội, con đã lãnh nhận thiên chức ngôn sứ
của Cha. Là ngôn sứ từ thuở ấy, nhưng đã mấy khi con sống đúng tư cách ngôn sứ
của mình! đã mấy khi con sống cho ra ngôn sứ của Cha! Xin cho con dám can đảm
chấp nhận tất cả những khó khăn đau khổ xảy đến, khi hoàn cảnh buộc lương tâm
con phải lên tiếng làm chứng cho Cha, cho chân lý, công lý và tình thương. Xin
đừng bao giờ để con lấy cớ khôn ngoan để hành xử một cách hèn nhát trước bạo
lực. Xin hãy cho con dám nói hoặc làm khi lương tâm người Kitô hữu buộc con
phải nói hay làm một điều gì đó xứng hợp với chức năng ngôn sứ của mình. Xin
ban ơn can đảm để con sống đúng thiên chức ngôn sứ của người Kitô hữu trong
con. Amen.
16. Phân rẽ
Đoạn Tin
mừng hôm nay có lẽ đã làm cho chúng ta thắc mắc và tự hỏi:
- Giới
luật của Chúa là giới luật yêu thương. Suốt cả cuộc đời, Ngài không ngừng cổ võ
cho tình yêu, vậy tại sau Ngài lại bảo: Ta đến để đem sự phân rẽ.Vậy sự phân rẽ
ở đây phải được hiểu như thế nào?
Theo thiển
ý của tôi, Chúa Giêsu đã thực sự phân rẽ. Phải, phân rẽ giữa sự thiện và sự ác,
giữa ánh sáng và bóng tồi, để rồi từ đó đòi buộc chúng ta phải có một chọn lựa
căn bản, một thái độ dứt khoát, một lập trường minh bạch. Thực vậy, chúng ta
hãy nhớ lại lời tiên tri của ông già Simêon:
- Trẻ nhỏ
này sẽ nên như bia cho người ta chống đối.
Lời tiên
tri này đã, đang và sẽ còn được thực hiện. Ngài đã phân rẽ thế giới này thành
hai phe rõ rệt. Đang khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã thờ lạy Chúa nơi máng
cỏ Bêlem, thì Hêrôđê đã ra lệnh truy lùng và tàn sát Chúa.
Trong cuộc
sống công khai cũng thế, đang khi dân chúng say mê bước theo Chúa, thì bọn luật
sĩ đã tìm mọi cách để ám hại Ngài và chắc chắn họ đã được thỏa mãn khi đóng
đinh Ngài vào thập giá.
Giáo hội
hôm nay chính là hiện thân của Đức Kitô, chính là Đức Kitô được kéo dài qua
dòng thời gian, nên cũng phải đi theo con đường của Ngài và chịu chung cùng một
số phận với Ngài.
Đúng thế,
sau bài giảng của thánh Phêrô trong ngày lễ Hiện xuống, hàng ngàn người đã tin
theo Chúa và đã lập nên cộng đoàn Giêrusalen, thế nhưng các đầu mục Do Thái đã
tức tối, bắt giam và xét xử các tông đồ. Những giọt máu đào của Stephanô đã
khơi nguồn cho dòng máu anh hùng của các vị tử đạo trên toàn thế giới.
Giữa lúc
Giáo hội đang phát triển mạnh mẽ, thì ba trăm năm cấm cách dưới thờ các bạo
vương La Mã tưởng chừng như muốn nhận chìm con thuyền Hội Thánh… Tất cả những
sự việc ấy, một lần nữa đã chứng thực cho lời tiên tri của ông già Simêon:
- Trẻ nhỏ
này sẽ nên bia cho người ta chống đối.
Và chân lý
ngàn đời của Đức Kitô đã trở thành sự thật:
- Thầy đến
để đem sự phân rẽ.
Ngài đã
phân rẽ nhân loại này thành hai giới tuyến rõ rệt. Thế nhưng, điều quan trọng
đó là mỗi người chúng ta sẽ đứng vào giới tuyến nào? Theo Thiên Chúa hay theo
Satan, theo Đức Kitô hay theo thế gian?
Sống là
bơi ngược dòng nước và nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Sống là chiến đấu và cuộc chiến đấu cam go nhất chính là cuộc chiến đấu giữa sự
thiện và sự ác, như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
- Sư thiện
tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm.
Sống là
chọn lựa và một khi đã chọn lựa Đức Kitô, thì chúng ta phải can đảm chiến đấu
dưới bóng cờ của Ngài.
Chiến đấu
dưới bóng cờ của Đức Kitô không có nghĩa là trở lại thời ký lạc hậu và tăm tối,
chưa có ánh sáng văn minh và những phương tiện hiện đại như ngày hôm nay.
Chiến đấu
dưới bóng cờ của Đức Kitô có nghĩa là là trở lại thời kỳ người ta biết vâng
phục thánh ý Chúa, biết sống chan hòa yêu thương và biết ra sức khử trừ tội
lỗi…
Chiến đấu
dưới bóng cờ của Đức Kitô có nghĩa là phải biết nói không với những cám dỗ của
ma quỉ, phải biết nói không với những quyến rũ của trần gian. Thà chết, chứ
chẳng thà phản bội Chúa.
Hay như
hoàng hậu Blanche de Castille đã nói với con mình là vua thánh Louis như sau:
- Thà rằng
mẹ thấy con chết trước mặt mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng
Chúa.
Cuộc chiến
đấu chống lại tội lỗi là một cuộc chiến đấu dứt khoát và không khoan nhượng,
một cuộc chiến đấu liên tục từng giây và từng phút, chẳng lúc nào được ngơi
nghỉ, chẳng lúc nào được nới lỏng vì ma quỉ sẽ không bao giờ ngủ trưa và tội
lỗi sẽ không bao giờ giải lao hay xả hơi, đúng như thánh Phêrô đã diễn tả:
- Ma quỉ
như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé.
Hơn thế
nữa, càng bị thử thách, chúng ta lại càng phải tin tưởng vào Chúa. Càng bị vùi
dập, chúng ta lại càng phải vùng dậy mạnh mẽ hơn. Trong cuộc chiến đấu này,
chúng ta phải luôn luôn tiến tới, bởi vì không tiến tức là lùi.
Vậy cuộc
chiến đấu cam go này sẽ đem lại cho chúng ta hậu quả nào?
Tôi xin
thưa, đó là phần rỗi của lình hồn và niềm hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời, như
lời Ngài đã phán hứa:
- Ai bền
đỗ đến cùng, thì sẽ được cứu rổi.
Hay như
một câu danh ngôn cũng đã xác quyết:
- Nếu muốn
được hạnh phúc trong một ngày, thì hãy mặc một chiếc áo mới. Nếu muốn được hạnh
phúc trong một tuần, thì hãy giết một con heo. Nếu muốn được hạnh phúc trong
một tháng, thì hãy thắng một vụ kiện. Nếu muốn được hạnh phúc trong một năm,
thì hãy lấy vợ, lấy chồng. Nếu muốn được hạnh phúc suốt cả một đời, thì hãy trở
nên người tử tế. Còn nếu muốn được hạnh phúc đời đời, thì hãy sống và chiến đấu
cho Đức Kitô.
Để kết
luận, chúng ta cùng nhau ghi nhận tư tưởng sau đây:
Hãy là một
ngọn lửa cho tình yêu Chúa được bừng cháy.
Hãy là một
chiếc ly thủy tinh cho ơn Chúa được tràn đầy.
Hãy là một
tấm gương cho hình ảnh Chúa được phản chiếu.
Dù khi tôi
cười, thì nụ cười ấy cũng sẽ nói về Chúa.
Dù khi tôi
khóc, thì những giọt nước mắt ấy cũng sẽ rơi vào lòng bàn tay của Chúa.
Hãy là
người chiến sĩ của Đức Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như qua mọi cảnh
huống thăng trầm của đời mình.
17.
Tình yêu
“Thầy đã
đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong lửa ấy cháy bùng lên”. Đó là
lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng. Ngọn lửa Chúa Giêsu ném vào thế giới là
gì? Chúa muốn ám chỉ điều gì?
Trước hết
chúng ta biết: lửa là một hình ảnh rất quen thuộc và có nhiều ý nghĩa khác nhau
đối với nhiều dân tộc. Người Việt Nam quan niệm rằng: trái đất chúng ta đang
sống được cấu tạo bởi năm chất: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tức là sắt, gỗ, nước,
lửa và đất. Theo văn chương Ba Tư, người ta tìm ra lửa trong một cuộc chiến với
con rồng. Chuyện kể rằng: một dũng sĩ Ba Tư đã dùng một hòn đá lớn để ném con
rồng, nhưng vì ném không trúng đích, hòn đá rớt trên một phiến đá khác và tẹt
ra lửa. Hầu hết các chuyện thần thoại đều kết luận: lửa là một món quà quí giá
Tạo Hóa đã ban tặng cho con người. Một số người xưa lại tưởng rằng: lửa là một
vị thần, nên đã tôn thờ gọi là “ Bái Hỏa”.
Nói đến
lửa, ai cũng biết tầm quan trọng và công dụng của nó là sáng, nóng, sưởi ấm, đốt
cháy, thiêu hủy. Ai trong chúng ta cũng cần lửa. Lửa rất có ích lợi, nhưng cũng
rất nguy hiểm. Nó dùng để nấu nướng thức ăn và chế biến nhiều thứ khác, nhưng
nó cũng có thể đốt cháy nhà cửa và thiêu rụi tài sản của chúng ta. Vì thế, đâu
đâu cũng có sở cứu hỏa, sở chữa cháy, và nhắc nhở chúng ta đề cao cảnh giác:
phòng cháy, chữa cháy, đừng đùa giỡn với lửa.
Ngoài lửa
vật chất ra, trong lòng mỗi người còn có một thứ lửa khác, là lửa dục, lửa
tham. Lòng dục và lòng tham đó còn bén nhạy và mãnh liệt mạnh mẽ hơn lửa vật
chất. Chẳng hạn: có phải mỗi khi trong lòng chúng ta muốn gì thì như có một sức
mạnh như lửa không ngăn cản nổi không? Hoặc là khi chúng ta bực tức điều gì,
thì có phải lòng chúng ta sôi sục lên không? Vì thế người ta nói: “Người gì mà
nóng như lửa”, hay “nóng như lửa đốt”… Nhất là khi chúng ta để cho lòng dục
lòng tham bùng lên, có phải nó sẽ gây nhiều tai hại không?
Trong Kinh
Thánh, chúng ta thấy nhiều lần nói đến lửa với nhiều ý nghĩa khác nhau. Trong
Cựu ước, lửa được dùng để chỉ Thiên Chúa hiện diện, chỉ sự tinh luyện xấu xa
tội lỗi, và cũng ám chỉ hình phạt của Thiên Chúa. Trong Tân ước, cũng nhiều lần
nói đến lửa, đặc biệt thánh Giacôbê đã mô tả cái lưỡi của con người là một ngọn
lửa, vì tác dụng của nó có thể hại hơn cả lửa. Cái lưỡi ở đây ám chỉ những lời
nói độc địa, ghê gớm, chẳng hạn: một lời nói vu oan có thể giết hại cả một con
người. Một lời hành tỏi, nói hành nói xấu làm cho người khác phải buồn phiền,
đau khổ, mất ăn mất ngủ…
Đặc biệt
hơn nữa, ngọn lửa còn được dùng để diễn tả tình yêu. Đây chính là ý nghĩa của
ngọn lửa mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu đến trần gian
như ngọn lửa cứu độ. Ngọn lửa cứu độ đó là tình yêu của Ngài. Tình yêu của Ngài
đối với loài người là ngọn lửa không bao giờ tắt, như trong kinh cầu Trái Tim
Chúa Giêsu có câu: “Trái Tim Đức Chúa Giêsu là lò lửa yêu mến hằng cháy”. Thực
vậy, khi Chúa Giêsu nhập thể, Ngài đem ngọn lửa tình yêu từ trời xuống trần
gian. Lửa đó đã thắp lên tại Bêlem, lửa đó không ngớt thiêu đốt Chúa ba mươi
năm ẩn dật ở Nagiaret, lửa đó đã bừng cháy trong hồi thương khó để lan tỏa cho
hết mọi người. Nói rõ hơn, vì yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đem lửa tình yêu
xuống thế gian. Ngài muốn mọi người tiếp nhận được ngọn lửa yêu thương của
Ngài. Vì thế, Chúa nói: Ngài mong muốn biết bao ngọn lửa tình yêu của Ngài được
bùng cháy lên.
Chúa Giêsu
đem ngọn lửa tình yêu đến, vậy tại sao cũng trong bài Tin Mừng này Chúa lại
nói: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho
anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Lời này có ý nghĩa
thế nào? Có mâu thuẫn không? Chúng ta cần hiểu cho đúng.
Thật sự
trong ba năm giảng dạy, chúng ta thấy Chúa chỉ luôn kêu gọi mọi người sống hiền
lành khiêm nhường, đừng đố kỵ, ganh ghét, hận thù nhau, nhưng hãy thông cảm tha
thứ và yêu thương nhau. Chẳng thấy Chúa đem gươm giáo đến, cũng chẳng thấy Chúa
thúc đẩy người ta gây chiến, bất hòa, chống đối, chém giết nhau. Vậy lời Chúa
tuyên bố trên đây chúng ta phải hiểu rằng: Chúa chỉ là nguyên nhân, là cái cớ để
người ta chống đối những người tin theo Chúa, tức là vì Chúa mà người ta chống
đối chém giết nhau.
Nói rõ
hơn, Tin Mừng của Chúa được rao giảng, có người hoan hỉ đón nhận và có người ra
sức chống đối, nghĩa là Tin Mừng của Chúa đem lại an bình và yêu thương, nhưng
nó vẫn phải va chạm với thái độ của một số người chống đối. Những người chống
đối lại va chạm với những người theo Chúa, thế là có sự chia rẽ nhau. Đó là
trong xã hội. Ngay cả trong gia đình cũng có thể xảy ra sự chia rẽ, vì có người
theo và có người không theo Chúa. Đây là sự chia rẽ vì niềm tin, vì lối sống
đạo. Tình trạng này đã xảy ra thời Giáo Hội sơ khai, và vẫn xảy ra luôn mãi.
Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh: những người theo đạo thường bị chính quyền
và đồng bào mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người
trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng.
Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình. Như vậy, hai
lời Chúa tuyên bố trong bài Tin Mừng hôm nay, không mâu thuẫn mà bổ túc cho
nhau. Chúng ta phải rao giảng, phải đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người, dù
gặp hoàn cảnh nào cũng không được lùi bước, dù phải rướm máu hay đổ máu.
Chúa Giêsu
đem lửa yêu thương đến trần gian và Ngài mong muốn ngọn lửa ấy bùng cháy lên.
Đó là tâm nguyện của Chúa và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Nếu
con người cần cơm bánh để sống, thì họ cũng cần tình yêu để tồn tại. Nếu con
người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu con
người muốn được bình an để vui sống, thì chỉ có tình thương mới đáp ứng được
ước muốn đó. Đó là bổn phận của chúng ta.
Nhưng
chúng ta hãy nhớ: “Không ai có thể cho người khác cái mình không có”, nghĩa là
chỉ khi nào ngọn lửa yêu thương thực sự sáng lên nơi mỗi người chúng ta, trong
gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta, trong Hội thánh chúng ta thì chúng
ta mới có thể loan báo và đem tình yêu thương đến cho những người khác.
18. Dấu chỉ
Tin Mừng
chúng ta vừa nghe, có vẻ khác lạ nếu chưa muốn nói là chói tai. Thường chúng ta
vẫn có những quan niệm rất bình an và dịu dàng về con người Giêsu và nhất là về
giáo lý bác ái của Người. Các thiên thần đã không hát khúc ca hòa bình trong
ngày Ngài giáng sinh đó sao? Và trọng tâm giáo lý của Ngài không phải là tình
thương đó sao? Ngài chẳng đến để hòa giải giữa Thiên Chúa và loài người, và
giữa dân ngoại và Do thái đó sao? Thế mà hôm nay, trong đoạn vắn tắt của thánh
Luca, chúng ta thấy Ngài nói đến Lửa và Nước, chia rẽ và chống đối, và ngay tại
gia đình thường được gọi là tổ ấm. Giải thích điều đó thế nào đây?
Chúng ta
đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Đức Giêsu sẽ được đưa lên cao. Sau khi mời
gọi phải tỉnh thức, được minh họa bằng dụ ngôn người quản lý khôn ngoan trong
Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, giờ đây Đức Giêsu nói với những ai theo Người ba
lời về thử thách, có ý nói đến những nguy hiểm của cuộc phiêu lưu theo Người:
Số phận của người môn đệ sẽ không khác gì Thầy mình.
Lời thứ
nhất loan báo Đức Giêsu đến “để ném lửa vào mặt đất”. Lửa đây là gì? Dĩ nhiên
lửa đây không phải là thứ lửa vật chất mà chúng ta dùng để nhóm bếp hay dùng để
đốt thuốc lá. Lửa ở đây phải được hiểu theo nghĩa tượng trưng. Trong Cựu ước
lửa tượng trưng cho quyền năng tối thượng, sự hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa.
Đó cũng có thể là lửa phán xét của Thiên Chúa để thiêu hủy những kẻ xấu và
thanh luyện một số ít những người trung tín còn lại. Nhưng đối với thánh Luca,
trước hết lửa là biểu tượng của thần khí đã ngự trên Đức Giêsu, đã xức dầu cho
Ngài, đã sai Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ơn giải
thoát cho kẻ tù đày, cho người đui được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan, loan
báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Nhưng cũng chính vì đó mà Đức Giêsu trở thành
dấu chỉ của sự chống đối trong suốt cuộc đời của Ngài. Cuối cùng khi sự bất hòa
lên đến tột đỉnh Ngài đã bị các đối thủ giết chết. Đồng thời lửa đó cũng là
thần khí đến thiêu đốt các tông đồ trong ngày lễ Hiện xuống. Chính ngọn lửa đó
đã làm cháy tan sự lo lắng, sợ hãi trong các tông đồ và dẫn các ông ra đi làm
chứng cho Đức Giêsu. Dẫu cho trong sứ vụ làm chứng đó, các ông gặp chống đối và
phải thiệt thân.
Là Kitô
hữu chúng ta đã lãnh nhận thần khí qua bí tích Rửa tội và Thêm sức. Thì chắc
chắn chúng ta cũng sẽ trở nên dấu chỉ sự chống đối như Đức Giêsu.
Lời thứ
hai của Đức Giêsu giới thiệu “cái chết” của Người như một phép rửa, mà Người sẽ
bị nhận chìm trong đó để cứu rỗi dân Người: “Thầy còn một phép rửa phải chịu và
lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Từ “Phép
rửa”, theo nguyên nghĩa là “sự nhận chìm trong nước”. Vào thời của thánh Luca,
phép rửa không phải là mấy giọt nước xối trên trán như phép rửa của chúng ta
ngày nay. Người nhận phép rửa phải nhận chìm toàn thân vào trong một hồ nước.
Vì thế phải dịch câu nói của Đức Giêsu thế này: “Thầy phải được nhận chìm trong
một hồ nước”. Khi nói như thế, cho thấy Đức Giêsu đang nghĩ đến cuộc khổ nạn,
đến cuộc tắm máu,… hay chính xác hơn, Ngài đang nghĩ đến những dòng nước cuồn
cuộn khổ đau và chết chóc, không bao lâu nữa sẽ dìm chết Ngài. Đức Giêsu xao
xuyến nghĩ đến việc đó. Nhưng việc đó đối với Ngài là điều cần thiết như lời
Ngài nói “Thầy còn một phép rửa phải chịu…”. Đây là một công thức thông thường
để nói về cuộc khổ nạn khắc khoải ấy qua đó một ý định nhiệm màu được thực
hiện.
Khi nêu
lên chủ đề “ơn ban bởi thần khí” và “phép rửa trong cái chết”, thánh Luca đã
cho thấy Đức Giêsu đã phải trả giá đắt biết bao cho sự cứu chuộc thế gian.
Phép rửa
này là một cuộc vượt qua bắt buộc đối với Đức Giêsu và các môn đệ Ngài. Vì vậy
Ngài hỏi ông Giacôbê và Gioan, khi các ông muốn làm lớn trong Nước của Ngài:
“Các con có thể uống chén mà Thầy sắp uống, chịu phép rửa mà Thầy sắp chịu
không?”
Bởi đó
muốn được sống lại với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng phải chịu dìm mình vào cái
chết của Người, nghĩa là chết đi cho thói hư, tật xấu và tội lỗi của mình.
Lời thứ ba
của Đức Giêsu quả quyết rõ ràng, những ai theo Người cũng sẽ phải gặp thử thách
trên bước đường đi của họ, và ngay cả trong gia đình của chính mình.
Hòa bình
là một điều tốt lành nhất mà người ta chờ đợi từ Đấng Messia. Trái lại, lời
giảng dậy và hành động của Đức Giêsu gây ra những phản ứng chống đối mạnh mẽ.
Đức Giêsu là một con người bị truy đuổi. Ngài cảm thấy điều đó ở xung quanh
mình. Nhưng thay vì từ bỏ hành động và sợ hãi, Ngài tiến thẳng về cái chết với
một lòng can đảm đáng khâm phục. Và Ngài loan báo cho các bạn hữu của Ngài,
chính họ cũng bị chống đối như vậy.
Như những
người đồng thời với Đức Giêsu, chúng ta mơ ước hòa bình và chúng ta muốn hưởng
trọn vẹn sự hài hòa yên tĩnh ấy, vốn là sự nghỉ ngơi của tâm hồn, của vợ chồng
với nhau, của cha mẹ với con cái, của con cái với cha mẹ, của môi trường xã hội
này với môi trường khác… Shalom, hòa bình là ước mong mà người Do thái nói với
nhau mỗi ngày. Thực tế, đó là lý tưởng tóm tắt tất cả những gì người ta mong
ước.
Thế thì
tại sao Chúa lại có vẻ đề cao sự chia rẽ? Chúa không phải là hòa bình của thế
giới sao?
Vâng, Đức
Giêsu chính là người mang lại hòa bình. Nhưng không phải là thứ hòa bình dễ
dãi. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế
gian ban tặng”. Có những nền hòa bình lừa dối, những sự an ninh ru ngủ và nguy
hiểm. Chúng chỉ dựa trên những thỏa hiệp, nhượng bộ, không dám bùng nổ vì sợ
thiệt hại cho thân thể, của cải, danh tiếng của mình. Hòa bình kiểu đó chỉ che
đậy những chống đối trầm trọng, ẩn chứa đầy sóng ngầm, che dấu chiến tranh
lạnh, hay duy trì những phần tử đặt cạnh nhau mà không cảm thông lẫn nhau. Tất
cả những điều đó là sự trái ngược của hòa bình. Hòa bình đích thực chỉ có thể
đạt được khi chúng ta lựa chọn theo Đức Giêsu. Tuy nhiên lựa chọn theo Đức
Giêsu là bao hàm cả thập giá, chính là sự chia rẽ trong một cộng đoàn sống
chung, hoặc huyết tộc, một gia đình, mà đáng lẽ sự đoàn kết được coi như điều
hiển nhiên như năm ngón tay trong một bàn tay. Đứng trước việc Đức Giêsu đến,
không còn gì không bị đảo lộn.
Trong cuộc
đời của chúng ta, sự hiện diện của Đức Giêsu và Lời của Ngài không phải là một
sự hiện diện trung lập vô hại, vô thưởng vô phạt. Không. Tin Mừng của Đức Giêsu
là một loại thuốc nổ, một thứ diêm sinh, là thứ lửa cực nóng thiêu đốt, thanh luyện,
biến đổi cuộc sống con người và thay đổi bộ mặt thế giới. Lửa thần linh mà
Thiên Chúa ban cho chúng ta trong ngày lãnh bí tích Rửa tội cũng phải bừng lên
và hoạt động như vậy. Ánh lửa thiêng ấy phải thay đổi, biến chúng ta trở thành
các chứng nhân của Tin Mừng. Nhưng con đường của lòng tin, con đường theo Chúa
và cách sống Tin Mừng triệt để, đòi chúng ta phải có lòng can đảm và kiên trì.
Bởi vì, thường khi nó khiến chúng ta rơi vào tình trạng sống khác với những
người thân yêu và môi trường sống của chúng ta. Không phải vì giáo huấn của
Chúa xấu hay dở, nhưng bởi vì nó đi ngược dòng đời, nó chống lại mọi cách suy
tư và hành xử theo tính toán ích kỷ tự nhiên của con người. Do đó, tin Chúa và
bước theo Chúa là một cuộc kháng chiến trường kỳ và đầy gian khổ.
Nếu đức
tin nơi Chúa là một chọn lựa đầy yêu sách, thì xin Chúa làm cho đức tin ấy có
thể, bởi ơn của thần khí Chúa: “Lạy Chúa, giữa lòng thế giới, xin hãy đốt lên
ngọn lửa của thần khí Chúa”.
19.
Ném lửa
“Thầy đến
để ném lửa trên mặt đất… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự
chia rẽ”. Những lời lạ lùng mà chúng ta vừa nghe đến từ Đức Giêsu! Chúng ta
không muốn chờ đợi Người dùng lửa và gươm (sự chia rẽ). Người cũng không muốn.
Khi Giacôbê và Gioan muốn Người khiến lửa và diêm sinh từ trời xuống trên một
ngôi làng người Samari, Người nói với hai ông ấy rằng họ không biết điều họ
nói. Và khi Phêrô rút thanh gươm ra trong vườn cây dầu, Đức Giêsu nói với ông
hãy cất gươm đi.
Đức Giêsu
không đến để gây ra xáo trộn hoặc làm cho các gia đình tan vỡ. Nhưng thỉnh
thoảng điều ấy đã xảy ra. Trong thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, hoán cải theo
Kitô giáo hầu như dẫn đến việc bị gia đình từ bỏ, do đó người trở lại đạo phải
chọn lựa giữa Đức Kitô và gia đình mình.
Rõ ràng
khi Đức Giêsu nói về việc ném lửa và gây chia rẽ từ ngữ của Người không được
dùng theo nghĩa đen. Tuy nhiên những lời ấy có ý nghĩa thực tế đối với Người.
Đức Giêsu hiền lành nhưng không có nghĩa Người yếu đuối. Khi hoàn cảnh đòi hỏi,
Người cũng rất quả quyết như khi Người đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ.
Những lời
ấy cũng thể hiện những điều rất mạnh mẽ trong giáo huấn của Người. Giáo huấn
của Người gây ra chia rẽ. Người dạy rằng Vương quốc của Thiên Chúa mở ra cho
mọi người, thánh nhân và người tội lỗi, người Do thái và dân ngoại. Điều này
đưa đến sự xung đột của Người với cơ chế tôn giáo của thời đó. Người gọi các
kinh sư và người Pharisêu là những kẻ giả hình và những người mù dẫn đường. Họ
gọi Người là một kẻ làm loạn và một người bị quỉ ám.
Nếu Đức
Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những điều “dễ nghe”, hẳn Người
đã trở thành một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Người đã chọn cách làm
cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối. Lời
Người làm tổn thương một vài người và làm những người khác tức giận. Những lời
Người nói với người nghèo khác với những lời Người nói với người giàu. Những
lời Người nói với người tội lỗi khác với những lời Người nói với Pharisêu.
Chúng ta sẽ phản bội lại Tin Mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu
dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những khác nhau giữa người
giàu và người nghèo, giữa người có đặc quyền và người cùng khổ. Một Tin Mừng
nhạt nhẽo như thế không thể trở thành men làm dậy bột thế gian.
Có một xu
hướng “thuần hóa” Tin Mừng, giản lược nó vào những lời nói hay đẹp và những
kinh nghiệm an toàn dễ chịu. Khi điều ấy xảy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết
sức mạnh, muối mất hết mùi vị, ánh sáng trở nên mù mờ.
Các Kitô
hữu không nên ngạc nhiên nếu Tin Mừng chia rẽ người ta. Ý thức về công lý đã
đưa Người đến chỗ xung đột với những người bất lương. Lòng khoan dung của Người
khiến Người phải xung đột với người có đầu óc hẹp hòi và tin tưởng mù quáng.
Ánh sáng càng sáng tỏ thì bóng tối mà nó đẩy lùi càng thêm tăm tối.
“Khi tôi
cho người nghèo lương thực, họ gọi tôi là một ông thánh. Nhưng khi tôi hỏi tại
sao người nghèo không có lương thực, họ gọi tôi là một người cộng sản”. Cố Tổng
giám mục Helder Camara, người chiến sĩ đấu tranh cho người nghèo ở Braxin đã
nói như thế.
Đức Giêsu
nói rằng Người đến để thắp lửa trên mặt đất. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ
nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Đó là một biểu tượng của sự phán xét và thanh
luyện. Lửa đốt cháy những gì vô ích, và thanh lọc những gì còn ô uế.
Sứ điệp
Tin Mừng là một ngọn lửa thanh luyện, nó là men cho xã hội và thế gian. Ngọn
lửa ấy không chỉ được đốt lên mà còn được giữ gìn. Chúng ta, những môn đệ của
Đức Giêsu là những người chăm sóc giữ gìn ngọn lửa ấy.
20. Sứ mạng
của Đức Giêsu – Lm FX Vũ Phan Long
Nguyện ước
sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh Thần, là đạt được cuộc gặp gỡ cao độ,
“nóng cháy”, với loài người. Nếu chúng ta hiểu ý Người và cũng mong muốn như
thế, chúng ta cần để cho Thánh Thần của Người hướng dẫn để biết lấy lập trường
đúng đắn.
1.- NGỮ
CẢNH
Những lời
Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại 12,48 trong bài tường thuật về
hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài
đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53).
Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông
chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã
gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
2.- BỐ CỤC
Bản văn có
thể chia thành hai phần:
1)
Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2)
Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
3.- VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI
- ném lửa
vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một
phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt
(Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các
nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh
Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các
thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân
của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer, BJ).
- Thầy còn
một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi
tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc
một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương
Khó.
- lòng
Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người
khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm nhận
tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của
Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).
- hoà bình
(51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của
thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói
nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình
trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed
13,10.16).
- cha
chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.
4.- Ý
NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Nguyện
vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)
Trong Tin
Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném lửa
vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức
Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa
đó bùng lên?
Có những
người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến
ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi”
(Bản dịch Anh giáo, Crampon, Joušon, NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng
còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn
tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in
terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng
Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt
đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch
theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut
accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB,
CGKPV…
Trong Cựu
Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv
13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét
xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có
nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức
Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy
Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh
Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x.
3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự
chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer, BJ).
Dù có chọn
nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan:
“Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi
đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh
em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng
trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”),
chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần
là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự
thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của
Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm
nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ
vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa”
trong c. 16.
Muốn tìm
ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người
muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang
bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi
với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người
và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép
rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không
mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ
mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.
Nói đến
việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu gọi
người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (5,32). “Con
Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ
mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên
Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. Lc 7,36-50). Nhưng
Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và
xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên
tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian.
Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc
cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các
cách giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.
Có thể nói
Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”. Người đến,
đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin
Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương
xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt
cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta,
nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp
trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng
dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở
lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của
Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa
cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.
* Hậu quả
sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)
Trong cuộc
gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh
Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở
thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và
các tâm trí đang được phân rẽ (x. 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân
rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón
tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với
nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm
đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình,
nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.
Một phần
cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người
đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa” mà
Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu
nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn
sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc
này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc
này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.
Vào lúc
Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng
về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội
lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào
nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an
với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với
Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra
chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa
thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai,
con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách
ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên
chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch”
(7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của
những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai
chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên
bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có
hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta
chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan
điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và
cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập
trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.
+ Kết luận
Những lời
Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa
của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng
cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà
Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài
hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao
độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy
sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi
tìm sự hài hòa.
5.- GỢI Ý
SUY NIỆM
1. Như lửa
có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người
chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh
Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.
2. Đức
Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc
khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người.
Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi,
những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc
sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức
Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu,
tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến
tặng cuộc sống chúng ta.
3. Qua
cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô
sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái
coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với
những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là
Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Tất cả công
trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ mãnh liệt.
Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.
4. Đức
Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người
vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa (x. Mc
7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một
bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn
cản chúng ta bước đi theo Người.
21. Lửa và
Bình An – Lm. Jos Nguyễn Cao Luật
Ngọn lửa
của Đức Giêsu ...
Chắc có lẽ
nhiều người được xem trên Tivi những hình ảnh các buỗi lễ khai mạc Thế Vận Hội.
Hình ảnh gây ấn tượng nhiều nhất hẳn là nghi thức đốt lửa khai mạc. Từ mấy
tháng trước, trước khi ngọn lửa được bùng lên tại lễ đài của sân vận động, ngọn
lửa ấy đã được đốt lên tại núi Olympia - Hy-lạp - quê hương của Olympic. Và rồi
ngọn lửa được rước về xứ sở được vinh dự tỗ chức Thế Vận Hội, được trao cho các
vận động viên nỗi tiếng, những người có danh giá: mỗi người một đoạn đường.
Những người này thay phiên nhau rước ngọn đuốc Olympic đi khắp đất nước, và đến
ngày khai mạc, ngọn đuốc được đưa về sân vận động và được thắp lên trên lễ đài.
Cũng trong
những hình ảnh của Olympic, vào ngày bế mạc, khi ngọn lửa trên lễ đài được tắt
đi, thì mỗi người tham dự cầm một ngọn đèn, tượng trưng cho tinh thần Olympic.
Ánh sáng từ những ngọn đèn nhỏ, với muôn ngàn màu sắc khác nhau, làm cho bầu
khí thật cảm động. Ngọn đèn trên tay, như là thu nhỏ của ngọn lửa Olympic, sẽ
được giữ mãi, nhớ mãi, mỗi người cảm thấy mình gần người khác hơn, đầy tinh
thần yêu thương và thông cảm.
Xin mượn
những hình ảnh ấy để gợi ý chia sẻ cho bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu được
Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ mệnh bày tỏ tình thương của Thiên Chúa đối
với con người. Người đến giữa vận hội trần gian và đốt lên ngọn lửa của Thiên
Chúa. Người đã rước ngọn lửa đó đi khắp đất nước Do thái, vượt ra khỏi những
biên cương do con người tạo nên. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa đám dân Do
thái đang chờ mong Đấng Cứu Tinh. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa những người
dân ngoại. Người đã làm bừng lên trong tâm hổn mọi người ngọn lửa như ông Gioan
Tẩy Giả đã loan báo. Ông Gioan Tẩy Giả thanh tẩy bằng nước, còn Đức Giêsu thanh
tẩy trong Thần Khí, tức là gió và lửa. Tất cả lời nói và hành vi của Đức Giêsu
đều cho thấy một ngọn lửa đích thực, lửa vĩnh cửu, lửa thiêng, để rổi cuối
cùng, Người lấy chính mạng sống của mình để đốt lên một cách dứt khoát trên lễ
đài thập giá, trên đổi Can-vê. Chính lúc ấy, Người đã thốt lên: "Mọi sự đã
hoàn tất."
Đức Giêsu
đã thắp lên ngọn lửa vĩnh cửu bằng chính cái chết của Người. Trước đó, Người đã
trao cho các Tông Đổ sứ mệnh đem ngọn lửa đi khắp thế gian, đến tận cùng cõi
đất. Theo lệnh của Đức Giêsu, các Tông Đổ đã đem ngọn lửa ấy đến các dân, loan
báo cho mọi người, không trừ một ai, để tất cả được nghe biết về Tin Mừng cứu
độ.
Và rồi, từ
thế hệ này sang thế hệ khác, ngọn lửa ấy được chuyền tay, lan đến khắp mọi nơi.
Đã có biết bao con người đem cả cuộc đời của mình, đem chính mạng sống của mình
để bảo vệ ngọn lửa, để công bố cho thế giới về tình thương của Thiên Chúa.
... đến
các Kitô hữu
Ngọn lửa
ấy hôm nay được chuyển đến các Kitô hữu, được thắp lên trong tâm hổn họ. Khi
lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người đã được trao cho một cây nến sáng, với
lời nhắn nhủ hãy giữ cho ngọn lửa cháy mãi. Người Kitô hữu sẽ mang ngọn lửa ấy
và đốt lên trong vận hội trần gian. Nơi đâu họ có mặt, nơi ấy là vận động
trường, và ở đó cần có lửa. Với những hoàn cảnh sống khác nhau, về cả nơi chốn
và điều kiện, người Kitô hữu có nhiều cơ hội để mang ngọn lửa Tin Mừng thắp
sáng mọi ngõ ngách cuộc đời.
Nhưng ngọn
lửa ấy là gì?
Mọi người
hẳn biết ngọn lửa ấy chính là Đức Tin, hay nói khác đi, chính là tinh thần Kitô
giáo, là Tin Mừng, là sứ điệp cứu độ.
Mỗi người
đều biết công dụng của lửa. Ở Đà Lạt, vào những ngày mùa lạnh, ngoài chức năng
soi sáng, lửa còn dùng để sưởi ấm, tức là để xua tan khí lạnh, để chống lại giá
rét. Đúng thế, người ta có thể hình dung ra câu chuyện Đức Giêsu ở trong Đền
Thờ: Người cầm roi xua đuổi hết những người buôn bán, và trả lại sự trang
nghiêm thánh thiện cho nơi thờ phượng. Ngọn lửa của Đức Giêsu vừa có tính cách
huỷ diệt, vừa có chức năng soi sáng và đốt nóng. Do đó, người Kitô hữu đem ngọn
lửa nhận từ Đức Giêsu để phá tan những u tối, những ngờ vực và soi sáng con
đường để bước tới. Người Kitô hữu đem ngọn lửa để đốt cháy những gì không phù
hợp với Nước Thiên Chúa, và làm cho ngọn lửa bừng lên ở khắp mọi nơi.
Cũng phải
nói thêm rằng, ngọn lửa ấy chính là Đức Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trần
gian để nhân loại được sưởi ấm nhờ tình thương của Thiên Chúa. Người đến để soi
sáng đêm tăm tối trần gian và làm cho con người chìm sâu trong ngọn lửa vĩnh
cửu, để rổi chính họ sẽ trở thành lửa cho người khác. Và Đức Giêsu cũng đã đem
cả cuộc đời của Người để làm cho ngọn lửa ấy không bị dập tắt, nhưng được bùng lên
mãnh liệt. Để thi hành sứ mạng này, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết, đã chịu đổ
máu mình. Người Kitô hữu cầm ngọn lửa là Đức Giêsu cũng sẽ phải sống như vậy,
họ sẽ phải biến cuộc đời của mình thành một ngọn lửa. Họ sẽ phải đem theo ngọn
lửa đó cho đến đích, không để cho ngọn lửa bị tàn lụi, nhưng luôn cháy sáng,
như Đức Kitô đã làm.
Trở lại
hình ảnh của cuộc rước đuốc Olympic: các vận động viên rước đuốc là những người
được tuyển chọn, những người nổi tiếng, không phải bất cứ ai cũng được vinh dự
đó. Người Kitô hữu có cảm thấy hãnh diện khi mình là vận động viên của Đức
Giêsu đem ngọn lửa đi rước khắp cuộc đời? Và, như vận động viên phải giương cao
ngọn đuốc, người Kitô hữu cũng phải kiên trì và dũng cảm bày tỏ đức tin của
mình. Họ không được đem giấu ngọn lửa, cũng không làm lửa tắt, nhưng hiên ngang
sống niềm tin, dù có những trở ngại, khó khăn.
Liệu chúng
ta có dám nhận mình là vận động viên của Đức Giêsu? Dám chứ, vì tất cả đều đã
lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
Bình an từ
cuộc chiến đấu
Trong suốt
thời kỳ rao giảng công khai, Đức Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ sứ mệnh của Người
là quy tụ, là đưa những con chiên lạc về đàn, những người đang tản mác về một
mối. Ai cũng hiểu như thế. Vậy mà, trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu lại quả quyết:
"Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho
anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ" (Lc 12,51). Tại
sao Đức Giêsu lại nói đến chia rẽ? Phải chăng Người tự mâu thuẫn?
Để trả lời
điều này, chúng ta phải vượt qua cái nhìn quá "tầm thường" về Đức
Giêsu. Bình an, tình yêu ... Đúng, nhưng trước đó là phải đương đầu với những
khó khăn, phải chiến đấu, và phải liều mạng nữa. Bình an không phải là được yên
thân, tránh được những trở ngại, nhưng là chiến thắng, là vượt ra khỏi, là dám
sống những giá trị lớn lao. Bởi vì nếu như thế, bình an, Nước Trời là thứ dễ
dàng quá, chỉ cần ngổi không cũng có được. Chỉ sau khi vượt qua cái chết Đức
Giêsu mới thực sự chúc bình an cho các môn đệ. Và đó là bình an, là tình yêu
của con người đã đi qua những đau khổ lớn lao nhất, kể cả cái chết. Đã có lần
Đức Giêsu cho biết rằng, chỉ những người nào mạnh mới được vào Nước Trời, và
như thế phải bước qua cửa hẹp.
Bình an
Đức Giêsu trao tặng không giống bình an của trần gian. Muốn được hưởng bình an
ấy, chúng ta phải đi theo Đức Giêsu, trên chính con đường Người đã đi, đó là
dám phiêu lưu, dám liều mạng. Người đi theo Đức Giêsu là người phải chọn lựa,
phải đấu tranh, ngay cả với những người thân quen nhất. Người đi theo Đức Giêsu
phải dám hy sinh tất cả, từ bỏ tất cả, để chỉ chọn lựa một mình Người. Người đi
theo Đức Giêsu là kẻ bước trên con đường chênh vênh, đầy khó khăn, nhưng vẫn
tràn đầy niềm vui và hy vọng vì biết rằng mình không bị vấp ngã. Đức Giêsu vẫn
đi bên cạnh và như vậy họ được bình an.
Do đó, sự
quy tụ mà Đức Giêsu mong muốn không phải là một thứ hoà hợp nhạt nhẽo, vô vị,
nhưng là một sự chọn lựa tích cực, một sự nỗ lực với tất cả khả năng của mình.
Cuộc đời
người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu để bảo vệ ngọn lửa giữa những
bão táp. Chiến đấu để đem ngọn lửa thắp sáng lên trong mọi ngõ ngách, mọi bí ẩn
của tâm hổn. Chiến đấu để đưa ngọn lửa về tới đích. Chiến đấu để đạt được bình
an, thứ bình an đích thực, bởi vì Đức Giêsu đã giao hoà thế gian với Thiên Chúa
khi chịu đóng đinh trên thập giá.
Ôi Thiên
Chúa, đối với chúng con, sự thúc giục của Chân Lý thật mãnh liệt, thế nhưng, ai
đã đón lấy sự thúc giục ấy thì được biến đổi, trở nên rất giản dị.
Khi nhìn
thấy Thiên Chúa, họ cùng với Thiên Chúa nhìn xem thế giới vô ơn và tàn bạo này,
và đón nhận vào trong tâm hổn mình cuộc Thương Khó vĩnh cửu.
Thiên Chúa
không có tiếng nói họ là tiếng nói thay thế Người.
Thiên Chúa
không có xác thân, họ hiến dâng thân mình để chịu khổ thay Người, và để hoàn
tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô.
Họ đơn
giản như ngọn lửa, như tiếng kêu, đơn giản như lưỡi dao sắc bén phân rẽ xác
thịt với thần trí.
(theo P.
Claudel.)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét