Roma
(Avvenire 31-10-2012; Vat. 19-11-2012) - Phỏng vấn ông Mario Tronti chính trị
gia và giáo sư Vittorio Possenti.
Trong
các ngày vừa qua các ông Pietro Barcelona, Paolo Sorbi, Mario Tronti và
Giuseppe Vacca, đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề "Khẩn trương nhân chủng học:
cho một liên minh mới giữa các tín hữu và những người không tín ngưỡng".
Cuốn sách gồm các đóng góp suy tư phát xuất từ bức thư ngỏ, mà bốn người đã cho
đăng trên nhật báo Tương Lai, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Ðồng Giám Mục
Italia, số ra ngày 10 tháng 10 năm 2011. Lá thư kêu gọi đối thoại giữa đảng Dân
Chủ và thế giới công giáo, khởi hành từ các vấn đề nóng bỏng nhất của lãnh vực
luân lý sinh học và nhân chủng học, đã được Ðức Giáo Hoàng Biển Ðức XVI đề cập
tới trong giáo huấn của người.
Sau
đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị một số nhận định của ông Mario Tronti, chính
trị gia và giáo sư Vittorio Possenti. Ông Mario Tronti là một trong các người
cha của phong trào công nhân Italia, hoạt động trong lãnh vực chính trị và trí
thức, và năm 1992 đã trở thành thượng nghị sĩ đảng Dân Chủ cánh tả. Ông cũng từng
là giáo sư triết học luân lý và triết học chính trị đại học Siena, trung bắc
Italia, và là tác giả nhiều sách như "Công nhân và tư bản" (1966),
"Sự tự trị của nhà chính trị" (1977), "Chính trị chiều tà"
(1998) và "Từ thái cực có thể" (2011). Ngoài ra, ông cũng cộng tác với
nhiều nguyệt san như "Tầng lớp công nhân" và "Phòng thí nghiệm
chính trị". Ðặc thái của ông là dấn thân trong cuộc đối thoại giữa truyền
thống mác xít và các tư tưởng gia thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau, trong đó
có Ernst Juenger và Carl Schmitt.
Ông
Vittorio Possenti là giáo sư triết lý chính trị đại học Venezia bắc Italia,
chuyên về triết lý siêu hình và duy bản vị. Là nhà trí thức công giáo nổi tiếng,
ông là thành viên của Ủy ban luân lý sinh học Italia, của Hàn lâm viện Khoa học
tòa thánh, và của Hàn lâm viện tòa thánh Thánh Toma. Ông cũng là tác giả của
nhiều sách như: "Giữa sự tục hóa và Kitô giáo mới" (1986), "Vượt
ngoài thuyết duy quang luận" (1992), "Thiên Chúa và sự dữ"
(1995), "Chuyến hải hành thứ ba: chủ thuyết hư vô và siêu hình học"
(1998), "Nguyên lý - Bản vị con người" (2006), và "Chủ thuyết hư
vô pháp lý" (2012).
Hỏi:
Thưa giáo sư Tronti, nhân chủng học là vấn đề "vô thời gian". Vậy tại
sao giáo sư lại coi nó là "Sự khẩn trương"?
Ðáp:
Chính hoàn cảnh ngày nay thúc đẩy chúng tôi đề cập tới các vấn đề nhân chủng học
với một sự sâu đậm trước đây chưa được biết tới. Càng ngày người ta càng có cảm
tưởng đang sống trong trung tâm của một cuộc khủng hoảng không chỉ là kinh tế
tài chánh, nhưng còn liên quan tới các ràng buộc xã hội và đang trở thành một
cuộc khủng hoảng của nền văn minh, bắt buộc chúng ta phải tính sổ với các tiến
trình văn minh hóa của qúa khứ. Tôi đặc biệt nghĩ tới các hình thức thái qúa của
sự tục hóa, đã bỏ rơi con người cho chính nó, và khiến cho các tương quan của
con người trở thành tồi tệ. Ðó là sự khẩn trương mà chúng tôi đã nói đến trong
bức thư ngỏ.
Hỏi:
Vậy thì làm thế nào để thoát ra khỏi tình trạng này thưa giáo sư?
Ðáp:
Cần phải làm cho các nền văn hóa và các nhậy cảm khác nhau giao thoa với nhau
trở lại, và nhất là phải dời sự chú ý tới các đề tài mà giới công nhân vẫn làm
từ lâu, sang phía tả, là phía đã bỏ bê lơ là với các đề tài này từ qúa lâu.
Trong
các nghiên cứu của mình, tôi đã luôn luôn quy chiếu về lý thuyết và triết học
chính trị. Và trong các thập niên cuối này, nhờ một số kinh nghiệm, tôi đã hiểu
ra rằng không thể giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị với các lý lẽ của chính
trị. Từ đó tôi bắt đầu chú ý tới nền thần học chính trị.
Hỏi:
Thưa giáo sư Possenti, giáo sư nghĩ sao về điều này?
Ðáp:
Ðúng vậy, ngày nay có một cuộc khủng hoảng khẩn trương, nhưng nó đã bắt đầu trước
các hiện tượng mà chúng ta đang sống. Trong một giai đoạn nào đó nhân loại đã
tìm cách xây dựng các lý do sự chung sống của mình trên một loại thỏa thuận xã
hội và kiểm soát luân lý, đạt điểm cao trong Tuyên ngôn về nhân quyền. Một chứng
tá quan trọng của sự kiện này đã là diễn văn, mà triết gia kiêm tư tưởng gia
người Pháp Jacques Maritain đã đọc tại thành phố Mêhicô năm 1947, nhân đại hội
khoáng đại đầu tiên của tổ chức UNESCO. Ông nói rằng mặc dù có các khác biệt hiện
diện sau thế chiến, vẫn có thể đi đến một thỏa thuận cụ thể liên quan tới các
giá trị nền tảng, dựa trên ý niệm về phẩm giá con người. Trong 60 năm qua giả
thiết do triết gia Maritain thiết định và trên thực tế đã được Bản tuyên ngôn
nhân quyền thừa nhận, đã bị giảm thiểu ít nhất một phần. Ngày nay chúng ta bị
bó buộc phải ghi nhận sự thất bại trong nỗ lực xây dựng một nền luân lý đạo đức
công cộng, dựa trên các yếu tố thuộc loại luân lý chính trị triệt để. Nếu thực
sự muốn tìm một mẫu số chung tối thiểu, cần phải lui lại đàng sau, và chứng thực
trên bình diện nhân chủng học, là bình diện duy nhất có thể cống hiến một nền tảng
đáng tin cậy giúp đương đầu với các vấn nạn lớn hiện nay.
Hỏi:
Giáo sư có thể cho vài thí dụ không?
Ðáp:
Trước hết là lãnh vực kinh tế. Từ thời tổng thống Ronald Reagan và bà thủ tướng
Margueret Thatcher nó đã hoạt động qua việc tuyệt đối cởi trói cho các đòn bẩy
tài chánh, bằng cách biến cả chính trị thành một kẻ tùy thuộc chế độ tư bản tài
chánh. Nhưng ván bài định đoạt là trong việc quản lý cuộc sống sinh học chính
trị, trong đó người ta đối chiếu với một sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, mà cả
luân lý đạo đức xem ra cũng không đủ khả năng kiểm soát. Khi chúng ta phải thiết
định đối xử với phôi thai như thế nào, trước hết chúng ta phải thiết định xem
mình đang đứng trước một cục tế bào hay một bản vị con người. Tùy theo lập trường
nhân chủng học mà chúng ta có, các hậu qủa luân lý rất khác nhau, lại còn xung
khắc với nhau nữa là đàng khác.
Hỏi:
Nhưng chính trong các vấn đề này cánh tả ở Italia đã thờ ơ trong thời gian rất
lâu, có đúng thế không thưa giáo sư Tronti?
Ðáp:
Hơn là trường hợp của Italia tôi thấy có một sự qụy lụy bầu khí thống trị của
toàn Tây phương. Quan niệm về "con người kinh tế" không thôi đã giảm
thiểu một nửa con người rồi. Phong trào công nhân đã đề nghị giải thoát giới
công nhân khỏi các máy móc. Giờ đây với quan niệm về "con người kỹ thuật",
sự nô lệ lại còn tinh vi hơn, khiến cho tính cách nhân bản lại càng giảm thiểu
hơn nữa. Trong khi đó thì các ý thức hệ phân tán, và chúng ta tin rằng mình sống
sau khi các câu chuyện lớn kết thúc; và chúng ta đã quen với một câu chuyện rất
tiếc đã có từ lâu: đó là câu chuyện cho rằng thế giới không thể biến đổi được
và con người phải hạn chế chấp nhận tình trạng có sẵn đó. Hậu qủa là có một tâm
tình bài ý thức hệ, con đẻ của vài ảo tưởng nào đó của thập niên 1960. Lương
tâm con người thay đổi, nhưng chỉ trong một cách thức bản năng, theo các hướng
dẫn của các nền văn hóa tuyệt đối và giải phóng giả tạo, theo đó chỉ có quyềm lợi
của tập thể chứ không có quyền lợi của cá nhân. Phe tả đã không bao giờ có khả
năng nhận ra sự lạc hướng này: khi xóa bỏ giới hạn, nó cũng khiến cho mọi tương
quan với tập thể trở thành hư không. Chính vì sự bất lực đó mà phe tả Italia
ngày nay không còn có thể nhận ra mình trên bình diện người dân thường nữa. Nó
được tầng lởp trung bình chấp nhận, nhưng đã đánh mất đi sự tiếp xúc với các nền
văn hóa bình dân còn sống tại Italia.
Hỏi:
Thưa giáo sư Possenti, giáo sư có đồng ý với những nhận xét của giáo sư Tronti
hay không?
Ðáp:
Tôi hoàn toàn đồng ý với phân tích này, đặc biệt là các nhận xét về sự kiện thiếu
chiều kích bình dân của thế giới chính trị Italia. Bắt đầu từ thập niên 1980 đã
có các tiến trình khác nhau dẫn đưa tới các cắt chặt đau đớn đối với các nền
văn hóa cuộc sống của người dân Italia. Nói chung, người ta đã đánh mất đi ý thức
về sự tùy thuộc chung, một phần cũng vì các phương tiện truyền thông xã hội tấn
công, làm mất đi nhiều điểm quy chiếu truyền thống. Quảng trường công cộng trống
rỗng đi một số các giả thiết hiện sinh và bị thống trị bởi một diễn văn rỗng tuếch,
ít chú ý tới cuộc sống thực tế của con người và của các nhóm xã hội. Rất tiếc,
như giáo sư Tronti đã nhận xét, nền chính trị không dựa trên chính mình, và
thay vì lo cho công ích thì lại là thái độ trâng tráo không biết xấu hổ, khiến
cho người ta hầu như nuối tiếc thời xảy ra các vụ gian tham hối lộ. Nhưng đây
cũng là một hậu qủa của tâm thức thông thường, theo đó chỉ có cá nhân bây giờ
và ở đây là quan trọng, còn người ta bỏ hết mọi lo lắng đối với các người khác
và đối với ngày mai.
Hỏi:
Nghĩa là có một sự liên minh sắt thép giữa sa mạc các ý thức hệ và sự tục hóa
đang lan tràn, có phải thế không thưa giáo sư?
Ðáp:
Vâng, với một ý thức trách nhiệm chính xác của nền văn hóa cấp tiến ca tụng cá
nhân với mục đích bảo vệ các quyền lợi, nhưng lại không phân biệt giữa các quyền
lợi, các yêu sách và các ước mong. Phe tả đã để cho mình bị ô nhiễm bởi thái độ
này, bằng cách bám víu vào việc bảo vệ các quyền lợi nhưng lại lơ là mọi quy
chiếu về bổn phận. Ngoài ra, cả nền văn hóa tự do cũng đã cho thấy sự thiếu sót
của nó, khi chỉ tập trung vào quyền tự do. Ðó là điều tốt rồi, nhưng không phải
là tất cả. Chẳng hạn quyền có công ăn việc làm không phải là một quyền tự do,
cũng không phải là quyền sống. Chính trên nền tảng này của thực tại cần phải
suy tư trở lại những điều mà tôi thích gọi là "các nguyên tắc không thể
khước từ được", là nền tảng học thuyết xã hội của Giáo Hội.
Hỏi:
Thưa giáo sư Tronti, có phải đây cũng là các nguyên tắc được tán đồng bởi các
người "mác xít chấp nhận giáo huấn của Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI" ký
tên trong bức thư ngỏ đăng trên nhật báo Avvenire hồi năm ngoái hay không?
Ðáp:
Ngoài kiểu gọi rất là nhà báo và hữu hiệu trên đây mà tôi chấp nhận, còn có ý
muốn của chúng tôi nhắc tới một ý tưởng phe tả mạnh mẽ, ý thức về các lý do và
có khả năng đối chiếu với các nền văn hóa khác nhau.
Liên
quan tới Ðức Giáo Hoàng Biển Ðức XVI, mà người ta thường cho là "bảo thủ",
thì đây là một cách hiểu hoàn toàn sai lầm về giáo huấn của ngài. Ðiểm chính
nơi Ðức Ratzinger là chiều kích công cộng của kinh nghiệm đức tin. Thay vì hài
lòng với các điều tầm thường chung chung, các nền văn hóa phe tả phải nâng mình
lên cao tới mức độ này và chấp nhận đối chọi trên lãnh vực của các "nguyên
tắc bất khả nhượng". Nhưng vấn đề đến từ xa lắm và nó đã bắt đầu ngay
trong tư tưởng của Karl Marx rồi. Tuy nhiên thời gian càng qua đi, người ta lai
càng nhận ra rằng bất cứ kinh nghiệm biến đổi thực tại nào cũng không thể tách
rời khỏi yếu tố tinh thần hiện diện trong mỗi người. Theo như tôi thấy, có mối
dây nối kết rất chặt chẽ giữa sự siêu việt và cách mạng, miễn là hiểu từ cách mạng
trong chiều kích rộng rãi của nó.
Hỏi:
Còn với giáo sư Possenti thì sao?
Ðáp:
Trong Thông điệp "Spe salvi" Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI đã mời gọi
duyệt xét lại các biến cố của các thế kỷ cuối cùng như cố gắng xây dựng một
"vương quốc của con người", trong đó không còn có một niềm hy vọng kiểu
đối thần nữa. Hồi thế kỷ thứ XIX phong trào chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn bằng
cách chấp nhận chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx và Engels như bảo đảm khoa học,
nghĩa là như lý thuyết giải quyết mầu nhiệm của lịch sử. Ảo tưởng này ngày nay
buộc chúng ta phải sống trong một cánh đồng thực tại rất hạn hẹp, trong đó chỉ
có các hệ thống máy móc dễ điều khiển là có giá trị mà thôi, như hệ thống máy
móc biến đổi luân lý kinh tế thành luân lý đại đồng. Ðể vượt thắng quan niệm cắt
ngắn này của con người và của xã hội cần phải mở ra trở lại nhiều cánh cửa và
nhiều không gian. Và ở điểm này thì một nền luân lý đạo đức được chia sẻ không
đủ nữa. Cần phải có một chủ thuyết nhân bản được chia sẻ. Một nền nhân chủng học
có mục đích thắng vượt sự khẩn trương.
(Avvenire
31-10-2012)
Linh
Tiến Khải
(Radio
Vatican)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét