MÙA CHAY
Pháp-ngữ
gọi "Mùa Chay" là "Carême", từ carême này do la-ngữ mà ra,
là tiếng tắt của từ "quadragesima", nghĩa là "bốn mươi", tức
bốn chục ngày. Bốn chục ngày là thời gian của Mùa Chay, mà ngày thứ bốn mươi là
Lễ Phục-Sinh.
Con số
"40" (bốn mươi ngày) là con số biểu tượng, chỉ nhiều biến cố có tính
lịch sử của Thiên Chúa Giáo.
Trước
tiên, để dâng nước làm cơn đại hồng-thủy, trời đã mưa liên tục đúng 40 ngày
đêm.
Ông
Maisen đã ở trên núi Sinai cùng Chúa suốt 40 ngày đêm để lãnh nhận Mười điều
răn của Người.
Dân
Do-Thái được giải phóng khỏi Ai-Cập, trên đường về Đất Hứa, đã phải di chuyển
liên tục 40 năm trường trong sa mạc rồi mới tới nơi.
Tiên-tri
Êlia cũng đã ở trên núi Sinai 40 ngày.
Chúa đã
chấp thuận cho dân Ninive 40 ngày để thống hối.
Và chính
Chúa Giêsu cũng đã được Thần-Khí Thiên Chúa đưa vào ở trong sa-mạc 40 ngày đêm,
để chịu thử thách và cám dỗ.
v...v....
* *
Mùa Chay
được thiết lập từ Công-đồng Nicée, năm 325. Lúc khởi thủy, Mùa Chay chỉ có mục
đích chuẩn bị cho những người sẽ lãnh Phép Rửa và để mọi người ăn năn xám hối.
Tại
Rôma, từ thế kỷ thứ III, hàng năm cứ vào đêm Lễ Phục-Sinh, có tổ chức cho những
người lớn chưa vào đạo được lãnh nhận Phép Rửa; họ được gọi là "Tân
Tòng". Những tân-tòng này từng được học hỏi giáo lí từ trước, nhưng đặc biệt
trong thời gian 40 ngày trước Lễ Phục-Sinh, họ được dậy dỗ ráo riết hơn. Thời
gian 40 ngày này cũng để mọi tín hữu cùng nhau xám hối, hầu được nhận sự hòa-giải,
và có thể rước Mình Máu Thánh Chúa trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh.
Trong những
thế kỷ đầu của Giáo-Hội, việc giữ đạo của các tín hữu rất khó khăn, nghiêm ngặt.
Tỉ như việc xám hối và đền tội không phải thi hành mỗi người thầm lặng như ngày
nay, mà diễn ra công khai trước cộng đoàn. Nhiều trường hợp người phạm lỗi còn
bị trục xuất khỏi cộng-đoàn trong một thời gian, dài vắn tùy trường hợp tội phạm.
Vào Thứ
Tư áp tuần lễ đầu của Mùa Chay, trước mặt đông đủ cộng-đoàn, đức giám-mục sở tại
rắc lên đầu những kẻ phạm tội mỗi người một chút tro; rồi ngài định rõ hình phạt
cho từng kẻ phạm tội, sau đó dẫn họ tới cửa nhà thờ, trong khi các tín hữu khác
cùng một lòng cầu nguyện cho họ được chịu hình phạt và xám hối cho nên.
Ở Roma
và tại nước Pháp cổ đại, việc hòa giải và đền tội lại thi hành vào ngày Thứ Năm
Tuần Thánh, trong khi đó vùng Milan (Bắc Ý) và toàn nước Tây-Ban-Nha lại thi
hành vào Thứ Sáu Tuần Thánh. Ngày Lễ Phục Sinh, các tín hữu được rước Chúa dưới
hai hình thức.
Mùa Chay
những thế kỷ đầu của Giáo-Hội là mùa mang tính cộng-đoàn. Mỗi ngày các tín hữu
đều tề tựu, dắt theo những người đương trong thời kỳ học đạo chuẩn bị nhận Phép
Rửa (chuẩn tân tòng), để cùng nhau tham dự các nghi lễ phụng-vụ. Tại La-Mã, mãi
tới thế kỷ VI, chính Đức Giáo-Hoàng còn chủ tọa các nghi lễ của Mùa Chay trước
mặt cộng-đoàn.
Cũng
trong những thế kỷ đầu, thời gian của Mùa Chay áp dụng tại mỗi địa phương một
khác. Cho mãi tới thế kỷ V và VI thì sự thống nhất mới có, nghĩa là khắp nơi
trong Giáo-Hội cử hành Mùa Chay từ Chủ Nhật thứ sáu trước Lễ Phục-Sinh cho tới
ngày Thứ Năm Tuần Thánh thì Mùa Chay chấm dứt.
Ở thời
Trung-Cổ, Mùa Chay được coi là thời gian "hưu chiến" của Thiên Chúa.
Trong suốt Mùa Chay, các tòa án và cả những rạp hát đều đóng cửa. Tục giữ chay
từ sáng tinh mơ tới tối được áp dụng rộng rãi. Thì giờ cả ngày dành để mọi người
tham dự các lễ nghi phụng vụ.
* * *
Nhưng, thế
nào là giữ chay ?
Thưa là
giảm bớt về lượng và về phẩm trong việc ăn uống. Luật giữ chay áp dụng đối với
những người từ 14 tuổi tròn trở lên.
Giữ chay
cũng còn hiểu là phải kiêng thịt, trứng, sữa và những phó sản của sữa,
v...v...Việc kiêng khem này áp dụng cho những tín hữu từ 21 tuổi tới 60 tuổi
tròn
Giữ chay
trong Mùa Chay cho ta có cơ hội thấy sự khát và đói Thiên Chúa, đói khát Lời
Người. Đây không phải chỉ là một hành vi đền tội, mà còn là việc nói lên ý
nghĩa chia sẻ sự thiếu thốn với những người khó nghèo, vì Mùa Chay cũng còn có
ý nghĩa là "Mùa Gặp Gỡ".
Thánh
Aucơtinh nói :" Ăn chay và bố thí là đôi cánh giúp ta bay lên tới Thiên
Chúa là Cha của Mùa Chay".
Từ thế kỷ
thứ IV, nghi lễ Mùa Chay được thi hành ngày một rộng rãi và đi dần tới thống nhất
trong Giáo-Hội, lệ giữ chay cũng kèm theo và được các tín hữu tích cực tuân giữ.
Ngày ăn chay ai nấy chỉ dùng một bữa duy nhất vào buổi tối, bữa ăn ấy hết sức
thanh đạm : không thịt, không trứng, không sữa và cả những thứ do sữa làm ra,
cũng không uống rượu hoặc thứ uống làm bằng trái cây có pha men.
Trong Tuần
Thánh, giữ chay còn nghiêm ngặt hơn nữa : suốt tuần ngày nào cũng ăn chay, cho
tới khi gà gáy sáng Chủ Nhật Phục-Sinh thì lệ giữ chay mới chấm dứt.
Vào thế
kỷ thứ VII, dường như để nhắc nhủ thêm, lệ giữ chay cho tới tối được giáo-quyền
nhắc lại rõ ràng hơn.
Tới thế
kỷ thứ IX, việc giữ chay có phần giảm chút ít nghiêm ngặt. Sang thế kỷ XIII thì
ăn chay càng ngày càng dễ dãi hơn. Tới lúc này, một số thực phẩm, như trứng,
phó sản của sữa, v..v... không buộc phải kiêng giữ trong những bữa chay nữa; ai
nấy cũng được phép dùng rượu trong bữa ăn, nhưng không được lạm dụng.
Sau
cùng, theo thời gian và cho phù hợp với sự biến đổi của xã hội, việc giữ chay
cũng đổi thay dần.
Thoạt kỳ
thủy, trong suốt Mùa Chay, ngày nào người ta cũng dùng bữa vào hồi ba giờ sau
trưa, rồi đổi lên vào giữa trưa.
Nhưng rồi
lệ ăn chay lại thay đổi nữa : người giữ chay phải nhịn suốt trong hai mươi bốn
giờ liền, từ trưa hôm trước tới trưa hôm sau, nhưng vào lúc tối được phép dùng
chút ít thực phẩm nhẹ để đỡ lòng, nhưng tuyệt đối không phải là một bữa ăn để
khỏi bị phá chay.
Lệ ăn
chay áp dụng cho hết thảy những ai đã chịu Phép Rửa.
Bắt đầu
từ thế kỷ XVI trở đi, việc giữ chay càng trở nên dễ dàng hơn. Những khó khăn
ngày càng được bớt dần đi, rồi dùng việc hãm mình, đọc kinh cầu nguyện thêm để
thay thế vào. Tới đây, ngày ăn chay thì ban sáng được ăn một bữa nhẹ, bữa chính
ăn vào buổi tối. Sau cùng, việc giữ chay chỉ còn phải kiêng không được ăn thịt
và cá cùng trong một bữa ăn mà thôi.
Ngày nay
luật ăn chay và kiêng thịt vẫn còn áp dụng, nhưng đơn giản nhẹ nhàng khoảng từ
nửa thế kỷ trở lại đây.
Hết thảy
các ngày Thứ Sáu quanh năm, tùy quyết định của Đấng Bản Quyền, giáo hữu có thể
phải kiêng thịt hoặc được ăn thịt.
Trong
năm phụng-vụ, chỉ có Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh là hai ngày buộc phải
ăn chay và kiêng thịt mà thôi.
* * *
Mở đầu
Mùa Chay là Lễ Tro, lễ này bao giờ cũng nhằm ngày Thứ Tư
Lễ Tro
nhắc cho ta nhớ không có sự tử nạn của Chúa Giêsu, không nhờ lòng Chúa vô cùng
thương yêu loài người, thì thân phận chúng ta chỉ là cát bụi mà thôi.
Cho nên,
trong suốt Mùa Chay, hết thảy tín hữu đều được mời gọi, qua những hành vi cụ thể,
tĩnh trí lại và từ bỏ những gì dẫn ta tới sự chết, đồng thời ta phải quay về với
suối nguồn Sự Sống, căn cơ của Tình Yêu, và với Sự Sáng. Chúa Giêsu phục sinh,
mà lồng ngực và Trái Tim Người đã rách toang ra vì nhân loại, chính là Nguồn Sống,
là Sự Sống thật, là Tình Yêu hải hà chứng minh qua cái chết cho kẻ Mình yêu
(Ga.15;15).
Mùa Chay
là thời gian dành giúp cho những ai may mắn đương dọn mình để vào đạo thánh
Chúa, trở nên người tân-tòng khi lãnh Phép Rửa trong đêm Lễ Phục-Sinh. Thời
gian này và Phép Bí Tích do các tân-tòng lãnh nhận, cũng nhắc nhở cho hết thảy
tín hữu hồi tưởng những lời thề quyết khi nhận Phép Rửa, để hằng ngày tái xác
tín những thề quyết ấy, xuyên qua đời sống của mình.
Dân Chúa
chọn, khi tìm đường về Đất Hứa, đã phải trải qua 40 năm trường lầm lũi trong
sa-mạc. Chúa Giêsu sau khi chịu Phép Rửa, cũng đã một mình đi vào sa-mạc và ở
đó 40 đêm ngày. Vậy Mùa Chay còn được gọi là "Thời gian sa-mạc", để
ta suy niệm về tình trạng dân Do-thái xưa đi trong sa-mạc. Trong hành trình 40 năm
tìm về Đất Hứa, dân Do-thái đã trải qua những giờ phút mà tâm dạ họ khôn an, vì
những tiếng rì rầm liên lỉ, những bão tố cát bụi, những thiếu thốn thức ăn nước
uống..., hết thảy như giục họ nổi loạn chống nghịch cùng Thiên Chúa, vì họ tưởng
như Chúa bỏ họ lạc loài trong sa mạc hoang vắng. Họ đã mất niềm tin và cậy
trông đến độ đã quên mất lòng lân tuất Chúa, vẫn chăm lo cho họ mọi bề, nhưng họ
đã bỏ Chúa mà sinh ra mê tín dị đoan; dù vậy Thiên Chúa là Cha nhân từ vẫn
không bỏ họ, mà còn đưa họ về tới chốn yên hàn.
Cũng
trong sa-mạc, Chúa Giêsu đã trải qua những cơn hành hạ của thân xác vì đói
khát, nóng lạnh, nguy hiểm vì muông thú và rắn rết độc; tâm trí Người phải chịu
những phiền não của cô đơn, của lo lắng cho sứ mạng Người phải hoàn thành, sứ mạng
trọng đại Chúa Cha giao phó, là cứu rỗi cả và nhân loại.
Đối với
ta, sa-mạc là biểu tượng cuộc sống của loài người. Từ khi rời khỏi địa đàng,
loài người đã đánh mất cái nhìn linh thánh do Chúa ban cho khi loài người được
tạo thành. Có cái nhìn ấy, con người trong ngoài đều được tươi nhuận, mậu thịnh,
an lạc, hỷ hoan. Nhưng vì đánh mất nó, con người đã trở nên héo hon, khô cằn
như sa-mạc, nóng lạnh bất thường, tình trạng đổi thay, không giây phút nào còn
thấy được bình an ổn định nữa. Con người trở thành sa-mạc vì đã đánh mất Chúa,
đánh mất Sự Sống, đã lạc Chúa tức xa hẳn Con Đường Chân Thật (Ga.8;12) mà thất
thểu hấp hối dần trong nơi không có Nước Hằng Sống (Ga.4;14), không có Bánh Trường
Sinh (Ga.6;33,51,58).
Vì vậy
thời gian sa-mạc là để ta suy niệm và xám hối mọi lỗi phạm đã vấp phải; không
xám hối ta sẽ phải chết, như Chúa Giêsu đã phán :"Tôi nói cho các ông biết
:...nếu các ông không xám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy"
(Lc.13;3-5). Ta hãy tin vào Chúa thì sẽ đạt tới Sự Sống, vì Chúa lúc nào cũng ở
cùng ta, đừng hoài nghi như dân Do-thái trong sa-mạc nữa (Xh.17;7).
Trong thời
Chúa Giêsu, nhiều người từng sống trong sa-mạc, như phái Essénien sống gần khu
Qumrân, thánh Gioan Tiền hô sống trong sa-mac ven sông Giodanô, v..v... Nhưng
những người ấy không đói khát, không chết chóc, vì họ có Thiên Chúa, họ thi
hành sứ mệnh Thiên Chúa giao cho họ. Cộng-đoàn Essénien sống như những đan viện
ngày nay, ngày ngày hát ca thánh vịnh, học hỏi sứ ngôn, và cầu xin cho Đấng Cứu
Thế mau tới. Thánh Gioan Tẩy giả thì hô hào quần chúng dọn sẵn đường để đón Đấng
thiên hạ đợi trông.
Mùa Chay
còn là "Mùa thinh lặng". Chúa Giêsu hằng kêu gọi ta, gõ cửa lòng ta,
nhưng ta quá náo loạn, ta sống trong "ầm ĩ" của cuộc đời, nên những ồn
ào ấy đã làm cho ta không còn nghe được tiếng gõ cửa của Chúa qua những tiếng
thì thầm của Người. Hãy im lặng, im lặng đến cả tiếng đập cánh của con muỗi
cũng không còn, thì ta sẽ nghe thấy rõ ràng tiếng vô thanh Chúa nói với ta.
Mùa Chay
là mùa để hấng lấy ơn Chúa. Như cái ly đựng nước, nếu muốn có được nước ngon
lành, ly phải trống trơn không đựng một giọt gì, vì ly càng trống thì lượng nước
đổ vào càng nhiều. Để hấng lấy ơn Chúa, lòng ta cũng phải trở nên trống không,
sạch không, thì ơn Chúa sẽ đổ tràn. Và với ơn Chúa, ta sẽ có thể xám hối và đền
tội cho nên, hầu chuẩn bị đón Chúa và phục sinh với Chúa trong ngày Người vinh
quang chiến thắng tử thần.
Trên kia
đã nói Mùa Chay là "Mùa chia sẻ". Trong suốt Mùa Chay, ta phải nhớ
lúc nào trong đời ta cũng có những anh chị em bất hạnh sống ngay cạnh ta. Họ bất
hạnh không phải vì những vất vả thiếu thốn họ chịu, mà còn vì họ chịu những điều
đó đơn côi một mình, không người đồng cảm, không người chia sẻ, chia sẻ tinh thần,
và chia sẻ cả vật chất. "Lá lành đùm lá rách" là bổn phận của ta đối
với hết thảy anh em sống quanh ta, trong cùng xóm làng, cùng khu phố. "Một
miếng khi đói bằng một gói khi no" là châm ngôn ta phải giữ với họ.
"Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau" là thái độ ta phải cư xử với họ, với
mọi người. Đó là những khía cạnh tiêu biểu của "chia sẻ", chia sẻ
trong Mùa Chay, để nhờ "chia sẻ" ta được phục-sinh, như Chúa phục-sinh.
Sau
cùng, Mùa Chay là mùa thi đua. Như những lực sĩ trên thao trường, chúng ta là
những chiến sĩ thi đua đời sống chạy đến cùng Chúa. Cuộc chạy đua này là cuộc
đua việt dã, diễn ra trong 40 ngày đêm liên tục không ngừng, như những lực sĩ
chạy bộ từ Sydney về Melbourne. Trong cuộc đua, có những lực sĩ vừa chạy vừa ngủ,
nhiều người khác "cứ chạy mà quên rằng mình đương chạy", y như thánh
Phaolô từng nói. Vì vậy, trong cuộc đua của ta, ta cần phải thường xuyên ý thức
sâu sắc rằng ta là lực sĩ đương băng đồng vượt sông để tiến sát bên Chúa, tiến
vào lòng Chúa. Hơi sức ta sẽ không đủ nếu không có Chúa tiếp cho ta sức mạnh của
Người. Ơn Chúa sẽ như những thùng nước lạnh dội trên mình người lực sĩ, làm cho
ta tỉnh hẳn người và bột phát sinh lực linh hồn và thể xác, làm cho bước chạy
ta dẻo dai, tốc độ thêm mau lẹ; ta sẽ tới đích và đạt được mọi tiêu chuẩn của
cuộc đua về với Chúa, để cùng phục-sinh với Người.
* * *
Như
ta đã biết Mùa Chay khởi đầu bằng Thứ Tư Lễ Tro.
Vào thời
khai nguyên Giáo-Hội, những giáo-hữu nào phạm tội nặng phải nhận một cái bao bố
và mớ tro; bao bố mặc vào người, còn tro rắc trên đầu, như thế trong suốt thời
gian chuẩn bị để đương sự được tái nhận vào cộng-đoàn tín-hữu.
Từ thế kỷ
thứ X trở đi, việc xức tro được thi hành chung cho mọi tín hữu, không còn làm
riêng như trước nữa. Sự thay đổi này là dấu chỉ sự vận động hành vi xám hối mà
mọi người cần làm. Xám hối có nghĩa là gắng sức mình quay lại cùng Thiên Chúa.
Khi
linh-mục bôi trên trán ta một chút tro (thường là tro tàn đốt các thứ ảnh tượng
khăn màn thánh cũ nát không dùng nữa, và lá cũ của Lễ Lá năm trước), ngài đọc
"con hãy xám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc.1;15); lời đọc này xuất xứ
từ truyền thống Do-thái, có mục đích vận động thiết lập một cộng đoàn biết lắng
nghe lời Thiên Chúa, vì hai tiếng "xám hối" chính là hãy quay mặt lại
với Chúa, lắng nghe lời Người, và tích cực phát triển trong liên hệ với Người.
Nghi
thức "xức tro" mang hai ý nghĩa :
Trước hết
nhắc ta nhớ rằng, được tạo ra với những điều kiện như loài người hiện là, đời sống
ở đây và bây giờ chỉ là một cuộc "kinh qua tạm bợ", không bằng một
cái chớp mắt so với đời đời.
Hai là,
nhờ nghi thức chịu tro, ta sẽ được tăng cường niềm cậy trông vào một cuộc sống
mai hậu, ở bên kia cái chết, nghĩa là theo chân Chúa Giêsu, ta sẽ phục-sinh. Chịu
tro xức trên đầu là ta công khai nhận mình là kẻ tội lỗi, và ta cần phải tái định
hướng theo ánh sáng Chúa Giêsu chiếu dọi cho. Ngay từ đầu Mùa Chay, Giáo-Hội đã
mời gọi ta, để dọn mình mừng Chúa Phục-Sinh, hãy mau mắn lãnh nhận Bí Tích Hòa
Giải, sớm bác lại nhịp cầu yêu thương, để Cha con được làm hòa cùng nhau, anh
em được xum vầy trong cùng một niềm tin-cậy-kính mến. Bước vào Mùa chay, ta chịu
ngay tro lên đầu là chứng minh tâm ta quyết sống với Chúa Giêsu và lòng ta quyết
yêu thương mọi anh em khác như Chúa hằng dậy ta.
Để sống
Mùa Chay cho xứng đáng, ta cần dành nhiều thời gian cho việc suy niệm và thống
hối, có như thế ta mới dọn được lòng mình hầu phục sinh với Chúa Kitô./.
Sưu tầm-
Ân-Giang
0 nhận xét:
Đăng nhận xét