SUY TƯ VỀ ĐỨC TIN
Điểm
hẹn của chân lý đức tin
Nhà
bác học Newton nói: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu kính viễn vọng”
1.
Một thoáng nhìn về con người và sự gian nan của đức tin
“Đức
Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và
con người trở thành một sinh vật” (St 2,7). Vì “Thiên Chúa sáng tạo con người
theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27).
Một
nhà bác học Mỹ đã phân tích các yếu tố vật chất trong con người và đánh giá như
sau: trong con người có một số nước đủ để giặt một cái khăn lau bàn. Máu có chứa
một lượng sắt có thể làm được 7 cái đinh đóng móng ngựa. Một số vôi đủ để quét
được một bức tường nhỏ. Một số than đủ để làm 65 cây bút chì. Một lượng phốt
phát đủ để làm được một hộp diêm. Số muối khoảng 1 muỗng cà phê. Trị giá tất cả
những yếu tố này dĩ nhiên không quá 1 mỹ kim. Nhưng cũng trong một cách lượng
giá ấy, một chuyên gia về nguyên tử lại ước tính rằng: năng lượng nguyên tử
trong mỗi con người có thể lên đến 1 triệu kw, nghĩa là bình quân cứ mỗi giờ, 1
kg sức nặng trong thân thể con người có thể sản xuất được 400.000 triệu kw. Như
vậy, mỗi người đều có giá trị đến 85 tỷ mỹ kim (x. R. Veritas, Bước theo chân Mẹ,
tr. 165).
Quả
thật,
“Ngắm
tầng trời tay Chúa sáng tạo
Muôn
trăng sao Chúa đã an bài,
Thì
con người là chi mà Chúa cần nhớ đến
Phàm
nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?
Chúa
cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban
vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho
làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt
muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,4-7).
Những
đoạn Kinh Thánh được ghi trong sách Sáng Thế nói về việc Thiên Chúa tạo dựng vũ
trụ và con người một thời được hiểu theo nghĩa đen thùi lùi nên đều trái ngược
với phát kiến khoa học của Corpecnic và tiếp đến là của nhà khoa học nổi tiếng
Galileo (1564-1642): trái đất tự quay quanh mình và quay quanh mặt trời một
vòng 365 ngày. Giới khoa học lấy Nicolas Corpecnic (1473-1543) với phát kiến hệ
nhật tâm (mặt trời là trung tâm) của ông để như một thứ mốc phân chia hai thời
kỳ. Từ Corpecnic trở về trước là thời Ptolemy (83-161) thuộc hệ địa tâm (trái đất
là trung tâm). Còn triết gia Aristote (384-322) của Hy Lạp với tư tưởng đi tìm
căn nguyên của vạn vật cũng đã gặp phải phản ứng gay gắt. Vào năm 1210, Tổng
Giám mục Sens và nhiều giám mục khác họp Công Đồng tại Pais đã lên án cấm chỉ đọc
Aristote!
Kiến
thức khoa học này, ngày nay không ai dám chối cãi và dám hiểu khác. Thế mà,
cách đây mấy thế kỷ, đây là một sự kiện long trời lở đất, đặc biệt là đối với
Giáo Hội. Nên đã xảy ra phản ứng gay gắt, suýt nữa nhà bác học nổi tiếng của
chúng ta bị Giáo Hội đưa lên giàn hoả thiêu. Sự phát kiến ra hệ nhật tâm của
Corpecnic và Galileo và một cuộc cách mạng trong nền thiên văn học và làm chao
đảo niềm tin Kitô giáo đứng trước sự hiểu biết nông cạn về mạc khải của Kinh
Thánh Cựu ước. Chưa hết, thuyết tiến hoá của Darwin (1809-1882) là cuộc cách mạng
rất lớn trong ngành sinh học. Trước đó, người ta quan niệm vạn vật và cả con
người được Thiên Chúa dựng nên một lần và chúng không hề có sự biến đổi nào
theo không gian và thời gian. Thuyết tiến hoá tỏ rõ sức sống của nó được củng cố
bằng những khám phá khoa học ngày càng nhiều trên khắp các lĩnh vực từ thiên
văn cho đến địa chất, từ sinh học cho đến di truyền học... Cuối cùng, Đức Giáo
hoàng Pio XII trong một thông điệp hồi tháng 8-1950 đã tuyên bố: giáo dân được
học học thuyết tiến hoá miễn là thuyết ấy chỉ tìm căn nguyên thể xác con người
trong một sinh cơ tiền tại, và từ đầu thế kỷ XX, thay vì dùng Kinh Thánh để phi
bác thuyết tiến hoá, các nhà biện giải Kinh Thánh ngược lại đã cố giải thích
Kinh Thánh cho phù hợp với các khám phá khoa học (x. Phùng Văn Hoá, Khoa học và
Đức tin, tr. 7).
Lịch
sử Giáo Hội đã trải qua giai đoạn khủng hoảng về đức tin liên quan đến lĩnh vực
khoa học, tín lý và văn chương… Điển hình vụ án nhà bác học Galileo mà Giáo Hội
đã phải xin lỗi và trả lại danh dự cho ông hay như chuyện Linh mục nổi tiếng
Frate Savonarole là Tu viện trưởng Dòng Đaminh tại Florence (Italia) đã bị lột
áo dòng rồi bị treo cổ và vứt vào giàn hoả thiêu ngày 23-5-1498 vì bi kịch cá
nhân với Giáo hoàng Alexandre VI mà Giáo Hội lại đang làm hồ sơ phong Á thánh
cho ngài (Lm. Thiện Cẩm, Cỏ dại ven đường, tr. 170). Rồi vụ Cha Anthony Mello
(tu sĩ Dòng Tên, Ấn Độ) bị lên án và một số thần học gia mới đây cũng vậy.
Nhìn
lại thế kỷ XIX, trong số 432 nhà bác học lớn trên thế giới, đã có tới 357 người
là Kitô hữu. Họ là những người có đức tin chân chính và có tầm ảnh hưởng rất lớn
với nhân loại.
Một
vài năm trở lại đây tại Việt Nam rộ lên một số tác phẩm văn học nhắm vào Giáo Hội
và đức tin Kitô giáo. Phải kể tới những tác phẩm: Da tô bí lục, Cuộc đời bên
ngoài, Bão biển, Giáp mặt - Chu Văn, 1986, Đổ bóng - Trần Đức Tiến (tạp chí
Thanh Niên, viết về tượng Chúa Kitô Vua ở Vũng Tàu). Bí mật cây thập tự vàng -
Trần Hữu Tòng (Hội nhà báo VN, 1994). Vừa qua với Mật mã De Vinci - Dan Brown.
Mới đây nhà văn Dan Brown còn liên kết với giới báo chí trong việc rò rỉ tin mật
của Toà Thánh Vatican. Hiện đang là nỗi đau buồn nhức nhối cho Giáo Hội, tạo ra
những cái nhìn không đúng đắn về Hội
Thánh và ảnh hưởng tới đức tin của người Kitô hữu.
2.
Nhìn vào Con Người Giêsu từ một góc độ
Nơi
Đức Giêsu làm người, Thiên Chúa đã để cho “Ngài chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn
oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa
thích” (Is 53,2). Một khối vẻ đẹp của chân lý vĩnh cửu lại ở trong con người Đức
Giêsu đang bị sỉ nhục, tan nát chẳng còn ra hình tượng gì như thế thật khó khăn
cho việc đón nhận. Tính chất của Mầu nhiệm Nhập thể luôn có thể bị che khuất ở
bất cứ góc độ nào, đó là một sự giới hạn và Thiên Chúa muốn khi phải chấp nhận
làm người. Thậm chí nói như Thánh Phaolô là Thiên Chúa chấp nhận huỷ mình ra
không, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Vì
thế mới có vấn đề là tầm cỡ như ông quan Philatô mà còn hỏi Chúa Giêsu: “Chân
lý (sự thật) là gì?” (x. Ga 18,37-38). Thật là ngớ ngẩn! Ông có quyền lớn như
thế mà không biết chân lý, kể cũng lạ thật? Hay là ông không được học hành đến
nơi đến chốn và bị quyền lực đè bẹp chân lý rồi chăng?! Thật đáng buồn cho một
câu hởi ngớ ngẩn được đặt trên môi miệng kẻ có quyền lực. Có lẽ theo đánh giá
chủ quan thì sự hiểu biết của ông ta quá nông cạn hay vì ông chỉ loay hoay chuyện
chính trị, kinh tế và công việc triều đình nên không có thời gian nghe và gặp gỡ
trực tiếp Chúa Giêsu?!
Vẻ
đẹp cao sang của Ngài là trở nên người tôi tớ phục vụ và hiến dâng mạng sống
làm giá chuộc muôn người. Chính sự hiến thân phục vụ ấy đã làm cho thân xác
Ngài chẳng còn ra hình tượng gì nữa. Nhưng người ta không thể chấp nhận vẻ đẹp
con người ở phương diện thể lý mà quan trọng là tâm hồn qua cách sống, vì ‘tốt
gỗ hơn tốt nước sơn’. Vẻ đẹp của Thiên Chúa trở nên quá rực rỡ, lung linh, uy
nghi đến nỗi phải đáng tôn thờ trong Con Một yêu dấu của Ngài lúc trên thánh
giá lại là lúc vẻ đẹp thân xác Ngài chẳng còn ra sự gì nữa. Vẻ đẹp đó là sự hy
sinh tận hiến trao ban tới giọt máu, giọt nước cuối cùng từ trái tim đến nỗi
người ta phải thốt lên ‘quả thật, Người này là Con Thiên Chúa’ (x. Mc 15,39; Ga
19,34-37; Lc 23,47). Đây mới là tính cao siêu của Thiên Chúa quyền năng. Một sự
vượt trội đẳng cấp tuyệt đối, khó hiểu. Không giống như chúng ta càng cao cả
thì càng tránh né những cái tầm thường, xấu xí, bụi bặm, nhơ nhớp, tội lỗi...
không dám để cho nó dính dấp vào áo quần của mình vì sợ mất vinh quang chăng!
3.
Thái độ của chúng ta và lập trường Giáo Hội
Có
lẽ chúng ta quá quen chỉ tập trung đề cao vẻ đẹp cao sang của Thiên Chúa như thể
lúc nào Ngài cũng ở trên 9 tầng mây! Điều đó đúng nhưng chưa đủ và ý Thiên Chúa
muốn không phải như thế. Vẻ đẹp cao sang của Thiên Chúa đang hiện diện trong
con người chúng ta, vì ‘con người là hình ảnh Thiên Chúa’ và được thấy trọn vẹn
trong Chúa Giêsu. Nhưng cũng chính vì thế mà người ta khó đón nhận được thiên
tính của Ngài. Cũng chính vì thế mà người ta chỉ dễ dàng tìm kiếm yếu tố loài
người nơi Đức Giêsu nên bị vấp phạm sai lầm trong những cái nhìn chưa toàn diện.
Đương nhiên sẽ không bao giờ gặp điểm hẹn trong chân lý đức tin chính thống.
Không
phải cứ có quyền, có học, có tuổi mà đã nhận thức được vẻ đẹp của chân lý. Có
những người quyền lực, có tri thức nhưng đã hiên ngang vất bỏ đi những giá trị
đáng trân trọng của nhân loại của dân tộc của cộng đồng vì sự thiếu hiểu biết
hay hiểu biết quá nông cạn.
Không
phải ai cũng hiểu được nghệ thuật. Không phải ai cũng cảm nhận được cái đẹp.
Không phải ai cũng tin vào chân lý. Tuy nhiên, những hạn chế đó có thể thay đổi
được nếu người ta được huấn luyện, đào tạo và hướng dẫn theo những quy ước,
nguyên tắc hay truyền thống chuẩn mực nhất định.
Cũng
vậy, không phải ai cũng đón nhận được Mầu nhiệm Nhập thể của Thiên Chúa. Không
phải ai cũng hiểu được siêu việt tính của Ngài. Vì thế, cần phải lưu ý và cập
nhật nghiên cứu đường hướng hội nhập để có thể nhập cuộc với đức tin. “Chúng ta
đang sống trong lịch sử, và trong lịch sử không có giai đoạn nào là vĩnh viễn cả.
Mỗi giai đoạn đều bị chờ vượt qua, chuẩn bị và đòi hỏi phải được vượt qua bởi
giai đoạn kế tiếp. Chỉ có những gì siêu việt lịch sử mới vĩnh viễn, và những gì
xuất hiện trong lịch sử đều là hình ảnh tượng trưng, diễn tả và kêu gọi những
gì ở bên kia lịch sử” (Yves Raguin, SJ, Độc thân ngày nay - nguyên tác:
Supplément à vie chrétienne). “Sách Diễm Ca đã ca ngợi tình yêu Thiên Chúa bằng
ngôn ngữ con người. Có người ngạc nhiên khi thấy bài ca ngợi này được đưa vào
sách Lời Chúa, tôi cũng chỉ bắt gặp được nếu nó làm rung động được con tim khốn
khổ của tôi. Thiên Chúa chơi bài ca yêu thương trên dây đàn ghita của con người,
những dây đàn tinh thần đang được căng trên sợi dây thần kinh, dây gân và xương
cốt của con người. Để hiểu hết tình yêu của Thiên Chúa, ta chỉ cần đọc những mạc
khải rất đẹp của Đức Kitô hay của Thánh Gioan: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã trao ban chính Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16). “Vì yêu thương các môn
đệ, Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). “Thiên Chúa là Tình Yêu...” (1
Ga 4,3) (Yves Raguin SJ, sđd., tr. 21). Hy vọng có cả sự hội nhập trong lĩnh vực
kinh tế và chính trị nữa chứ?
Chính
vì thế, phải có sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa nhân loại này để dạy cho chúng
ta biết thế nào là Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối trong bản tính của Ngôi Hai. Tất cả
con đường hội nhập tôn giáo ở mọi lĩnh vực đều phải khởi đi và dựa trên nền tảng
của Mầu nhiệm Nhập thể. Nếu không nhìn vào Mầu nhiệm Nhập thể trước đã thì người
ta có nguy cơ lẫn lộn hay làm mất đi những giá trị khác trong tiến trình hội nhập.
Giáo Hội hôm nay phải mạnh dạn và tích cực hơn trong việc hội nhập. Cần có sự đột
phá và dám đầu tư. Thực sự Công đồng Vatican II đã triển khai hướng này từ lâu
rồi. Tông huấn Giáo Hội tại Á châu nhắc nhở chúng ta phải biết kể chuyện về
Giêsu cho anh em mình bằng ngôn ngữ thời đại như Giêsu đã rao giảng bằng dụ
ngôn thì người ta mới hiểu được Nước Trời chứ nếu không thì như vịt nghe sấm cả
lượt với nhau chứ được cái ích lợi gì! Và phải “đặt mình vào hoàn cảnh người
nghe, để cho việc loan báo của mình thích ứng với trình độ và mức trưởng thành
của người nghe, và theo hình thức ngôn ngữ phù hợp”. Nhà truyền giáo vĩ đại
Phaolô đã xác tín: “Chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa
đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời,
cho chúng ta được vinh hiển” (1 Cr 2,7).
Thánh
Cypriano (210-258) đã nói một câu chí lý “người không có Giáo Hội làm Mẹ thì
cũng không thể có Thiên Chúa làm Cha” (Habere non protest Deum Patrem qui
Ecclesiam non habet Matrem). Theo Vatican I, không thể dùng lý trí để trình bày
đức tin và cũng không thể cưỡng ép hành vi đức tin. Vatican I mô tả đức tin là
“việc trí tuệ và ý chí tuân phục Thiên Chúa, Đấng mặc khải” (DS 3008). “Giáo hội
Công giáo tuyên xưng đức tin khởi đầu công cuộc cứu rỗi con người” (x. Trent DS
1532). Theo nhà thần học Rahner, mỗi một nền tảng đức tin là đối tượng của đức
tin, nhưng mỗi một đối tượng đức tin không phải là nền tảng đức tin. Theo
Balthasar, các phạm trù mỹ học giúp chúng ta vượt qua sự tương phản giữa khách
thể tính và chủ thể tính trong hành động đức tin. Và đức tin là lời đáp trả về
mạc khải cách trí tuệ và xác tín. Burrows viết thái độ của đức tin “nhất thiết
hệ tại vào sự chấp nhận cách triệt để kinh nghiệm đau thương về khó nghèo và sự
nhất quyết chấp nhận khó nghèo ngay trong hành động chứ không chỉ bằng trí tưởng
tượng đạo đức, chấp nhận chịu lột trần trước Thiên Chúa hằng sống, vết thương
phong hủi phơi bày ra làm cho cơ thể tàn phế, mù, câm, điếc: một nhu cầu sống.
Khi đối diện sự khó nghèo cách tận căn, chúng ta tái định vị để sống ý nghĩa của
đức tin lần đầu tiên”.
Công
đồng Vatican II quả quyết: “Sự thật sâu xa nhất về Thiên Chúa và công cuộc cứu
rỗi con người được sáng tỏ cho chúng ta nhờ vào Đức Kitô là Đấng trung gian và
cũng là mặc khải viên mãn” (DV2). Công Đồng rất thận trọng khi cho rằng mặc khải
nằm sâu trong cội rễ các tôn giáo ngoài Kinh Thánh, mặc dù ‘Giáo hội Công giáo
không phủ nhận những gì thánh thiện và chân thật trong các tôn giáo này’ (x.
Tuyên ngôn về các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate).
Theo
Tôma Aquinô, qua đức tin chúng ta hướng về Thiên Chúa là cứu cánh cuối cùng và
hướng về con đường cứu rỗi mà Thiên Chúa đã truyền dạy. Và “đối tượng chính thức
của đức tin là ‘sự thật đầu tiên’ (Thiên Chúa) như đã được biết qua Kinh Thánh
và qua giáo lý của Giáo Hội phát sinh từ sự thật đầu tiên”. Ngài đã định nghĩa
đức tin như sau: “Tin là một hành vi lý trí hướng tới chân lý Thiên Chúa nhờ
vào nhân đức thuộc ý chí điều khiển. Nhờ vào ân sủng, Thiên Chúa đánh động ý
chí này. Theo cách tiếp cận này, hành vi tin được ý chí tự do điều khiển và được
hướng về cùng đích Thiên Chúa” (x. Summa Theologiae, I-II, q2, art. 9). Theo
Augustinô, “không ai tin bất cứ điều gì mà trước tiên không nghĩ rằng phải tin
điều đó”. Tác giả thư Do Thái nói: “Ai đến gần Thiên Chúa thì phải tin là có
Thiên Chúa” (Dt 11,6). Thành ngữ “lex orandi lex credendi” (luật cầu nguyện là
luật đức tin) nhằm bảo đảm không đi ra ngoài truyền thống mặc khải cho dù đức
tin được hoà nhập vào tất cả mọi phương diện trần thế.
“Mạc
khải của Kinh Thánh không cạnh tranh cũng không mâu thuẫn với lý trí và khoa học.
Lý trí và khoa học không thể mâu thuẫn với mặc khải trừ khi chúng ta cố ép mặc
khải vào phạm trù khoa học” (Lm. Nguyễn Luật Khoa, OFM, biên dịch, Đức tin tìm
kiếm sự hiểu biết, tr. 319). Văn kiện Mysterium Ecclesiae, Mầu nhiệm Giáo Hội,
của Bộ Giáo lý Đức tin đưa ra vai trò quan trọng của các phạm trù ngôn ngữ học,
bối cảnh lịch sử, tính khiếm khuyết và các vũ trụ quan thừa nhận tính lịch sử của
truyền thống. Đức tin được hình thành do sự cảm nhận và chiêm ngắm bằng trái
tim chứ không phải bằng lý luận khoa học kiểm chứng hay xác thực kiểu toán học.
“Nếu
Vatican I lý giải vấn đề đức tin và lý trí thì Vatican II xử lý vấn đề đức tin
và lịch sử” (Lm. Nguyễn Luật Khoa, OFM, sđd.).
4.
Hướng mục vụ cho Năm Đức Tin
Trong
Năm Đức Tin, chúng ta cùng lắng nghe giáo huấn của Đức Giáo hoàng và các đức
giám mục với vai trò là thầy dạy đức tin là người mẹ Giáo Hội dạy bảo chúng ta
cách cụ thể và chắc chắn nhất. Trước hết là những hướng dẫn mục vụ cho Năm Đức
Tin (x. Bộ Giáo lý Đức tin, Hướng dẫn Mục vụ cho Năm Đức Tin, báo HT số 69, tr.
120):
“Đối
với mọi tín hữu, Năm Đức Tin sẽ đem lại một cơ hội tốt để học hỏi kỹ lưỡng những
văn kiện chính của Công đồng Vatican II và nghiên cứu sách Giáo lý của Hội
thánh Công giáo. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các ứng sinh đang hướng đến
chức linh mục, nhất là trong các năm dự bị hoặc những năm đầu học thần học, đối
với các tập sinh thuộc các hội dòng và các tu đoàn tông đồ, cũng như đối với những
người đang sống thời kỳ thử trước khi gia nhập một hiệp hội hoặc phong trào thuộc
Giáo Hội” (số 6, cấp hoàn cầu).
“Các
mục tử nên hết sức cổ vũ việc sử dụng ngôn ngữ mới của truyền thông, khuyến
khích sử dụng truyền hình, phát thanh, điện ảnh, xuất bản sách báo - ở mức độ đại
chúng, dễ phố biến - hướng vào đề tài đức tin, những nguyên lý và nội dung đức
tin, cũng như tầm ý nghĩa quan trọng đối với Giáo Hội của Công đồng Vatican II”
(số 4, cấp HĐGM).
“Thế
giới này ngay nhạy bén về mối quan hệ giữa đức tin và nghệ thuật. Do đó, đề nghị
các hội đồng giám mục vận dụng thích hợp nguồn di sản nghệ thuật tại địa phương
thuộc trách nhiệm mục vụ của mình, đồng thời với sự hợp tác đại kết, để hướng
vào việc giảng dạy giáo lý” (số 6, cấp HĐGM).
“Khuyến
khích giới học thuật và văn hoá hướng đến những cơ hội mới, mang tính sáng tạo,
cho cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí, qua việc tổ chức những hội nghị
chuyên đề, thảo luận và những ngày học hỏi, đặc biệt tại các trường đại học
Công giáo, nhằm cho thấy ‘giữa đức tin và khoa học đích thực không thể có bất kỳ
xung đột nào, bởi cả hai, dù đi trên những con đường khác nhau vẫn hướng đến
chân lý” (số 8, cấp giáo phận).
Đức
cha G.B. Bùi Tuần nói: “Làm môn đệ Đức Kitô là biết thờ phượng Thiên Chúa trong
tinh thần và chân lý. Không những là trong tinh thần và chân lý Phúc Âm mà cũng
trong tinh thần và chân lý của khoa học, của nghệ thuật, của văn hoá”. Nhà bác
học Newton đã nói: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu kính viễn vọng”. Nghĩa là
khoa học sẽ trợ giúp, mở đường cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa. Ở đỉnh điểm của
khoa học cũng như các lĩnh vực khác giúp người ta nhận biết Thiên Chúa rõ hơn
và làm cho đức tin chắc chắn hơn, chứ không phải như một số người hiểu sai xưa
nay.
Lm.
Pet. Bùi Trọng Khẩn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét